Tuesday, November 19, 2024

Công nghệ thực phẩm: Học đâu và làm gì?
Xin chào mọi người, mình quay lại rồi đây. Mình mới ra trường, chân ướt chân ráo mới toe bước đi làm về thực phẩm. Mấy năm học đại học là từng ấy năm mình mất tăm mất tích khỏi động Nhện. Hôm nay mình sẽ quay lại chia sẻ về chuyên ngành của mình, công nghệ thực phẩm, và một số chuyện thú vị xoay quanh nhé.

1. Công nghệ thực phẩm là ngành gì?

Hiểu một cách khái quát thì công nghệ thực phẩm là một ngành khoa học và công nghệ nghiên cứu về việc chế biến, bảo quản và phát triển các sản phẩm thực phẩm. Ngành của mình cần kết hợp nhiều kiến thức liên quan đến dinh dưỡng, hoá học, kĩ thuật, sinh học,... để có thể đưa từ nguyên liệu thô đến các sản phẩm công nghiệp như nước tương, nước mắm, bánh kẹo, trà, cà phê, cacao,..., những món đồ mọi người hay mua ở tạp hoá hay siêu thị.
Về ngành công nghệ thực phẩm thì có các hoạt động chính như chế biến thực phẩm (chế biến thực phẩm từ nguyên liệu thô đến sản phẩm tiêu dùng), bảo quản thực phẩm (tìm cách để cho thực phẩm tăng thời gian bảo quản), phát triển sản phẩm mới (nghiên cứu và thử nghiệm các quy trình để tạo ra sản phẩm mới) và kiểm soát chất lượng (đảm bảo tiêu chuẩn an toàn và chất lượng). Ngành thực phẩm còn khá non trẻ ở Việt Nam, mình về quê nhiều khi nói ngành này nhiều người không hiểu là làm gì, tưởng học ra cái ra chợ hay đi khắp nơi lập biên bản phạt mấy người bán thực phẩm bẩn=)))).

2. Các nhóm lĩnh vực sản phẩm trong Công nghệ thực phẩm

Ngành công nghệ thực phẩm rất rộng, nhưng sẽ được chia thành các lĩnh vực khác nhau dựa trên nhóm thực phẩm do sự tương đồng về quy trình chế biến hoặc một số tính chất của nguyên liệu đầu vào. Dưới đây là một số lĩnh vực phổ biến như:
+ Công nghệ chế biến sữa: nghiên cứu và phát triển các sản phẩm từ sữa như sữa tươi, phô mai, sữa chua, và kem. Đặc trưng của nhóm ngành này là yêu cầu khá nghiêm ngặt về các chỉ tiêu vi sinh (vi khuẩn, nấm men, nấm mốc) và chất lượng sản phẩm. Đồng thời cũng khắt khe về điều kiện chế biến, dân thực phẩm thường ngầm hiểu với nhau là sữa và thịt là hai mảng xương xẩu nhất do sự khó khăn của nó.
+ Công nghệ chế biến thịt và thuỷ sản: nghiên cứu về quy trình chế biến, bảo quản, và phát triển các sản phẩm từ thịt và hải sản, thường bán trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Các sản phẩm đa dạng như thịt hộp, xúc xích, cá/tôm đông lạnh, các sản phẩm giá trị gia tăng như há cảo, dimsum, hoành thánh, chả giò,... Tương tự như sữa thì thịt và thuỷ sản cũng gặp vấn đề vi sinh cần chú ý và kiểm soát nghiêm ngặt vì thực phẩm giàu dinh dưỡng, dễ hư hỏng hoặc sinh ra chất độc.
+ Công nghệ chế biến rau quả: nghiên cứu và phát triển các phương pháp bảo quản và chế biến rau quả để tăng cường độ tươi ngon và giá trị dinh dưỡng. Có thể kể tới như rau quả đóng hộp, mứt, trái cây cắt sẵn đóng hộp hay các sản phẩm hoa quả sấy khô sấy dẻo sấy giòn. Mỗi sản phẩm sẽ có quy trình công nghệ riêng để đạt được yêu cầu mong muốn của khách hàng, ví dụ như trái cây cắt sẵn để tránh bị hoá nâu có thể được bơm khí N2 và sử dụng màng bọc ngăn cản khí xâm nhập, tránh hiện tượng oxy hoá, hoặc một số sản phẩm sấy có thể được bao gói chân không,...
+ Công nghệ chế biến đường và bánh kẹo: nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bánh kẹo nói chung để thu hút người tiêu dùng. Cái này thì đa dạng từ kẹo cứng kẹo mềm, bánh mỳ, bánh quy, bánh trung thu,... Mỗi loại sẽ có những quy trình công nghệ khác nhau, sử dụng các phương pháp chế biến, bảo quản khác nhau. Nhưng nói chung mảng công nghệ chế biến sẽ làm việc chủ yếu xoay quanh đường, các loại bột, các hương vị mới mẻ cho sản phẩm.
+ Một số công nghệ khác: ngoài những mảng cụ thể như bên trên, còn một số công nghệ sản xuất thực phẩm khác như công nghệ sản xuất lương thực, dầu béo, công nghệ bao gói, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, kỹ thuật lên men,... và nhiều những mảng khác để phù hợp với từng loại sản phẩm sản xuất. Khi học thì sinh viên thường được dạy chung tất cả các mảng và những môn bản lề, để khi đi làm thì đào sâu hơn chuyên môn với một hoặc một nhóm sản phẩm cụ thể.

3. Học thực phẩm ra làm công việc gì?

Ngành học rất rộng nên những vị trí công việc cũng rất rộng, gần như bất cứ thứ gì dính dáng tới thực phẩm thì đều có thể làm được. Nhưng có những công việc chính của ngành mà đa số sinh viên đều lựa chọn làm sau khi tốt nghiệp mình sẽ liệt kê sau đây:

- QA/QC (Kiểm tra chất lượng):

QA (Quality Assurance) và QC (Quality Control) là hai khái niệm quan trọng trong sản xuất thực phẩm. Tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng việc thực hiện công việc của QA và QC vẫn khác nhau rất nhiều. QA hiểu đơn giản là tìm cách cải tiến quy trình, ngăn ngừa lỗi để đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng trong khi QC là người kiểm tra chất lượng của sản phẩm sau khi sản xuất. Mục tiêu của QC là phát hiện và sửa chữa lỗi trong sản phẩm cuối cùng.
Lấy ví dụ việc làm ra một chiếc bánh, thì công việc của QA là kiểm soát sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc xuất xứ, khi làm thì đầu bếp đeo găng tay, các nguyên liệu được sơ chế sạch sẽ, khi nướng hoặc chiên thì không bị khét, bị cháy, để làm ra một chiếc bánh có ít nguy cơ bị dở và bị đau bụng cho người ăn nhất. Trong khi đó công việc của QC là không cần bận tâm cái bánh được làm ra như nào, chỉ kiểm tra xem bánh có ngon không, để vài ngày có bị mốc không, thành phẩm có an toàn không, có gây đau bụng gì không?... Mình chỉ ví dụ về cái bánh nướng cho dễ hiểu, vì đương nhiên một sản phẩm công nghiệp sẽ nhiều nguy cơ và khắt khe hơn rất nhiều để ra được thị trường rồi. Trong các nhà máy thực phẩm, QC thường lấy mẫu theo cách ngẫu nhiên của từng lô hàng để kiểm tra các chỉ tiêu cơ bản như vật lý, hoá lý, cảm quan, vi sinh,... có thể kể tới như kiểm tra khối lượng tịnh của sản phẩm, độ ẩm, mật độ vi sinh vật có trong sản phẩm, màu sắc hay mùi vị, cấu trúc... Mỗi công ty và mỗi sản phẩm sẽ có những yêu cầu cần kiểm tra riêng để đảm bảo sản phẩm an toàn, ngon, đạt đủ các tiêu chuẩn chất lượng trước khi tiêu thụ ra thị trường.

Hình 1: Minh hoạ bên trong một công ty sản xuất thực phẩm
 
Một ngách nhỏ của QA/QC là Auditor dành cho những bạn thực sự rất giỏi và xuất sắc. Auditor hay còn gọi là kiểm tra viên, là những người được đào tạo đặc biệt về nghiệp vụ QA và QC để có thể đại diện cho một bên thứ 3 kiểm tra chất lượng của sản phẩm trong một nhà máy nào đó, khá tương tự với kiểm toán của bên tài chính. Một auditor phải có chuyên môn vững về đa dạng các sản phẩm thực phẩm, ngoài ra ngoại ngữ tốt, tâm lý cứng và các kĩ năng giao tiếp, thuyết phục cũng vô cùng quan trọng vì khi đi kiểm tra, một auditor phải đối mặt với những QA/QC kì cựu của nhà máy đó, họ am hiểu sản phẩm của công ty họ nên việc bắt lỗi là vô cùng khó khăn. Thường khách hàng sẽ thuê auditor để kiểm tra nhà máy, sản phẩm trước khi mua hàng hoặc đặt gia công và thường là trước mỗi lô hàng xuất ra nước ngoài.

- R&D (Nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới):

R&D trong ngành thực phẩm là viết tắt của Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm mới (Research and Development). Đây là quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển các sản phẩm mới hoặc cải tiến các sản phẩm hiện có để tăng sức cạnh tranh trên thị trường vốn dĩ đã rất khốc liệt. Để nghiên cứu một sản phẩm mới, đầu tiên một người làm R&D sẽ nghiên cứu thị trường để đưa ra dự đoán về sản phẩm tiềm năng, ngoài ra xem xét máy móc trang thiết bị của nhà máy phù hợp với nhóm sản phẩm nào để khoanh vùng lựa chọn. Sau khi lựa chọn được rồi sẽ tiến hành nghiên cứu các sản phẩm của đối thủ, tìm hiểu các thông tin liên quan về nguyên liệu, quy trình làm ra sản phẩm và bắt đầu tiến hành kế hoạch thử nghiệm ở phòng thí nghiệm. Sau khi thử nghiệm ổn ở phòng thí nghiệm sẽ tiến hành thử nghiệm mẻ nhỏ, mẻ vừa và mẻ lớn ở nhà máy. Việc thử nghiệm mẻ lớn hơn với điều kiện máy móc ở nhà máy sẽ cho một người làm R&D cái nhìn chính xác hơn về sản phẩm cũng như các sự cố có thể phát sinh để điều chỉnh lại cho phù hợp.
Khi quá trình thử nghiệm xong xuôi và chốt công thức, sản phẩm sẽ được làm mẫu thử để chào khách hàng hoặc đưa ra tiến hành cảm quan và đánh giá. Nếu sản phẩm được yêu thích, được ban lãnh đạo thông qua, R&D sẽ bắt đầu lựa chọn và thiết kế bao bì sản phẩm phù hợp. Bao bì sẽ có bên thứ ba thiết kế nhưng việc đưa ra yêu cầu và lựa chọn thiết kế nào, sử dụng bao bì ra sao (túi zip, hũ, túi giấy, đóng lon,...), kích thước thùng đựng như nào, chất liệu được sử dụng là gì?... sẽ do R&D đảm nhiệm vì người làm R&D sẽ hiểu rõ nhất tính chất và yêu cầu của sản phẩm.
Sau khi chốt bao bì và một số điều chỉnh khác thì R&D sẽ bắt đầu ban hành quy trình sản xuất và làm một số hướng dẫn để đưa sản phẩm vào sản xuất quy mô lớn hơn và tung ra thị trường. Việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới đã hoàn tất.
Tuy nhiên trong quá trình sản xuất, R&D có thể cải tiến thêm dựa trên sản phẩm đã sẵn có như thử nghiệm để thay đổi nguyên liệu để giảm giá thành, thay đổi bao bì tốt hơn hoặc chất liệu, tựu chung lại là có những cải tiến để dần hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng của sản phẩm hơn hoặc chất lượng không đổi nhiều nhưng giá thành giảm xuống để tăng sức cạnh tranh. Làm R&D cần học hỏi mỗi ngày, rất nhiều công việc không tên, nhưng bù lại rất có triển vọng phát triển và có thể thoả mãn sự tò mò và đam mê của những người thích nghiên cứu.

- Quản lý sản xuất (Kỹ thuật):

Quản lý sản xuất bao gồm lập kế hoạch, tổ chức, điều phối và giám sát sản xuất để đảm bảo sản phẩm được sản xuất đúng tiến độ, đạt chất lượng và tối ưu chi phí. Sau khi R&D nghiên cứu và ban hành quy trình để đưa sản phẩm vào sản xuất, thì đây là trách nhiệm của những người làm sản xuất để đảm bảo các công đoạn tuân theo quy trình và đạt được những tiêu chuẩn đã cho của sản phẩm thực phẩm. Công việc chính của quản lý sản xuất là quản lý công nhân, giải quyết các mâu thuẫn của họ, sắp xếp công nhân vào các vị trí để đảm bảo công việc được vận hành trơn tru. Ngoài ra, một người làm quản lý sản xuất cần xử lý các sự cố phát sinh khi có vấn đề xảy ra, là người đứng giữa ban lãnh đạo và nhà máy để đưa những sản phẩm được thí nghiệm quy mô nhỏ được sản xuất với quy mô lớn hơn và tung ra thị trường.
Ngoài ra một người làm kỹ thuật còn cần tính toán lượng sử dụng và tiêu hao của từng nguyên liệu của quy trình sản xuất, đồng thời kiểm tra và hướng dẫn công nhân làm việc đúng theo yêu cầu để đạt chất lượng sản phẩm tốt nhất. Người ta hay nói làm quản lí sản xuất như làm dâu trăm họ, đủ thứ chuyện lông gà vỏ tỏi đến đao to búa lớn đều đến tay. Nên ai phải có tâm lý siêu vững vàng cùng sự khéo léo và bản lĩnh thì mới làm quản lý sản xuất được, tuy nhiên đây là việc có khả năng thăng tiến cao, rèn luyện bản thân cực kì tốt trong môi trường khắc nghiệt và công nghiệp để hình thành khả năng quản lý và chịu áp lực cao. Mình thì làm R&D do tính khá bay bổng và cũng thích những gì áp lực vừa đủ thôi^^, cơ mà mình nhìn những người làm sản xuất thì ngưỡng mộ họ thực sự.
Chốt lại là mình cũng chỉ nói được khái quát ngành của mình thôi vì còn siêu rộng và sâu. Mình thì mới ti toe vào nghề nên cần học hỏi nhiều lắm. Nhưng đây là một bài viết chia sẻ về ngành lần đầu tiên thay cho lời chào hỏi khi quay lại sau mấy năm mình mất hút nên mình cũng mong khác biệt một xíu. Xin chào mọi người, hi vọng mọi người sẽ thích bài viết này:>

Thursday, October 31, 2024

20 JavaScript Tricks Every Developer Must Know

JavaScript is a powerful, flexible language, and knowing a few cool tricks can make your code cleaner, faster, and more efficient. Below are 20 practical JavaScript tips and tricks that you can use in real-world applications to enhance your development process.

1. Destructure and Rename in One Step

You can rename variables during object destructuring, which is helpful when there are naming conflicts.

const user = { name: 'Alice', age: 25 };

const { name: userName, age: userAge } = user;

console.log(userName); // Alice

console.log(userAge);  // 25

2. Optional Chaining with Function Calls

Optional chaining can be used with functions, ensuring the function exists before it’s called.

const user = {

  getName: () => 'Alice',

};

console.log(user.getName?.());   // Alice

console.log(user.getAge?.());    // undefined

3. Use ||= Operator for Default Assignment

The logical OR assignment (||=) assigns a value only if the variable is null or undefined or falsey value like 0.

let count;

count ||= 10;

console.log(count); // 10

4. Convert NodeList to Array Using Spread Operator

The spread operator provides a quick way to convert a NodeList to an array.

const divs = document.querySelectorAll('div');

const divArray = [...divs];

console.log(Array.isArray(divArray)); // true

5. Array/Object Destructuring with Default Values

Assign default values during destructuring to avoid undefined when keys are missing.

const user = { name: 'Alice' };

const { name, age = 25 } = user;

console.log(age); // 25

6. Remove Falsy Values from an Array

Use filter() to remove falsy values (like 0, null, undefined, false) from an array.

const arr = [0, 'hello', null, 42, false, 'world'];

const filtered = arr.filter(Boolean);

console.log(filtered); // ["hello", 42, "world"]

7. Sorting Arrays of Objects by Property

Easily sort an array of objects by a specific property.

const users = [{ name: 'Alice', age: 25 }, { name: 'Bob', age: 20 }];

users.sort((a, b) => a.age - b.age);

console.log(users); // [{ name: 'Bob', age: 20 }, { name: 'Alice', age: 25 }]

8. Dynamic Imports for Lazy Loading

Dynamic imports allow you to load modules only when needed, reducing initial load time.

const loadModule = async () => {

  const module = await import('./myModule.js');

  module.default(); // Calls the default export function

};

loadModule();

9. Default Parameters with Object Destructuring

When using default parameters, you can also destructure and set defaults for specific properties.

function createUser({ name = 'Guest', age = 18 } = {}) {

  console.log(name, age);

}

createUser();               // Guest 18

createUser({ name: 'Alice' }); // Alice 18

10. Use Object.assign() for Shallow Copying

Object.assign() is handy for shallow-copying objects without changing the original.

const original = { a: 1, b: 2 };

const copy = Object.assign({}, original);

copy.a = 3;

console.log(original.a); // 1 (unchanged)

11. Memoize Functions for Performance

Memoization caches results of expensive function calls based on arguments, useful for computationally heavy functions.

const memoize = (fn) => {

  const cache = {};

  return (...args) => {

    const key = JSON.stringify(args);

    if (!cache[key]) {

      cache[key] = fn(...args);

    }

    return cache[key];

  };

};

const slowSquare = (n) => n * n;

const memoizedSquare = memoize(slowSquare);

console.log(memoizedSquare(4)); // 16 (cached on second call)

12. Using reduce to Group Array Items

reduce() can group array items based on a property, often needed in data processing.

const people = [

  { name: 'Alice', role: 'admin' },

  { name: 'Bob', role: 'user' },

  { name: 'Charlie', role: 'admin' },

];

const grouped = people.reduce((acc, person) => {

  (acc[person.role] = acc[person.role] || []).push(person);

  return acc;

}, {});

console.log(grouped);

// { admin: [{ name: 'Alice' }, { name: 'Charlie' }], user: [{ name: 'Bob' }] }

13. Flatten Nested Arrays with Array.flat(Infinity)

Flattening multi-level nested arrays becomes straightforward with Array.flat(Infinity).

const nested = [1, [2, [3, [4]]]];

console.log(nested.flat(Infinity)); // [1, 2, 3, 4]

14. Toggle Boolean Value with !

Toggling a boolean value is as easy as applying the NOT operator twice.

let isVisible = false;

isVisible = !isVisible;

console.log(isVisible); // true

15. Merge Multiple Arrays with concat()

concat() is helpful for merging multiple arrays in a single statement.

const arr1 = [1, 2];

const arr2 = [3, 4];

const arr3 = [5, 6];

const merged = arr1.concat(arr2, arr3);

console.log(merged); // [1, 2, 3, 4, 5, 6]

16. Asynchronous Array Iteration with for...of and await

When iterating over an array of promises, for...of with await ensures that each promise resolves before the next one runs.

const fetchData = async () => {

  const urls = ['url1', 'url2'];

  for (const url of urls) {

    const response = await fetch(url);

    console.log(await response.json());

  }

};

17. Get the Last Item in an Array Quickly

Retrieve the last item in an array without needing to know the length.

const arr = [1, 2, 3, 4];

console.log(arr.at(-1)); // 4

18. Use Intl for Date Formatting

Intl.DateTimeFormat offers a powerful way to format dates across locales.

const date = new Date();

const formatted = new Intl.DateTimeFormat('en-GB', {

  dateStyle: 'full',

}).format(date);

console.log(formatted); // e.g., "Monday, 25 October 2021"

19. Round Numbers with Math.round() and Template Literals

Template literals can format rounded numbers directly.

const num = 3.14159;

console.log(`${Math.round(num * 100) / 100}`); // 3.14

20. Convert Array-Like Objects to Arrays Using Array.from()

Use Array.from() to convert array-like objects (e.g., arguments) into real arrays.

function example() {

  const argsArray = Array.from(arguments);

  console.log(argsArray);

}

example(1, 2, 3); // [1, 2, 3]

Each of these tricks simplifies common coding patterns in JavaScript. Integrate them into your workflow to write code that is both efficient and expressive.

Happy coding! 🚀 

Monday, October 28, 2024

Cà phê rang đậm có chứa nhiều caffeine hơn cà phê rang nhạt?
Nhiều người cho rằng cà phê rang đậm sẽ mạnh hơn và chứa nhiều caffeine hơn so với cà phê rang nhạt. Bạn có thể cũng đã từng nghe qua điều này, phải không? Tuy nhiên, thực tế lại phức tạp hơn rất nhiều. Hãy cùng khám phá xem đâu là sự thật đằng sau câu chuyện về caffeine trong cà phê.


Caffeine có thay đổi khi cà phê được rang?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta cần hiểu rằng caffeine là một chất khá ổn định trong suốt quá trình rang cà phê. Điều đó có nghĩa là, bất kể cà phê được rang sáng hay đậm, lượng caffeine trong mỗi hạt cà phê thực sự không thay đổi nhiều. Các biến đổi về hương vị, màu sắc và mùi thơm của cà phê chủ yếu đến từ sự phân hủy và thay đổi của các hợp chất khác trong hạt, như axit và dầu.

Tại sao nhiều người vẫn nghĩ cà phê rang đậm mạnh hơn?

Sự nhầm lẫn phổ biến này có thể xuất phát từ trải nghiệm hương vị. Cà phê rang đậm thường có vị đắng hơn, mùi thơm mạnh hơn và màu sắc đậm hơn so với rang nhạt. Những đặc điểm này khiến nhiều người cảm thấy cà phê rang đậm "mạnh mẽ" hơn, mặc dù thực tế không phải do hàm lượng caffeine cao hơn.

Trọng lượng, thể tích và cách đo lường: Yếu tố ảnh hưởng đến lượng caffeine

Một yếu tố quan trọng khác chính là cách bạn đo lường cà phê khi pha. Hạt cà phê khi rang đậm sẽ nở ra và mất đi một phần trọng lượng nước, khiến hạt lớn hơn và nhẹ hơn so với hạt rang nhạt. Vì vậy, nếu bạn cân cà phê theo trọng lượng (ví dụ 20g), bạn sẽ cần nhiều hạt cà phê rang đậm hơn để đạt đủ số cân đó, dẫn đến lượng caffeine trong mỗi lần pha có thể cao hơn.
Ngược lại, nếu bạn đo bằng thể tích (ví dụ bằng muỗng), cà phê rang nhạt sẽ có nhiều hạt hơn trong mỗi muỗng do hạt nhỏ và đặc hơn. Vì thế, cách pha cà phê bằng cách đo theo thể tích có thể dẫn đến lượng caffeine cao hơn nếu sử dụng cà phê rang nhạt.

Phương pháp pha chế và loại hạt cà phê: Những yếu tố không thể bỏ qua

Không chỉ có phương pháp rang, mà còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hàm lượng caffeine trong tách cà phê của bạn. Phương pháp pha chế là một trong những yếu tố quan trọng.
Ví dụ, cà phê Cold Brew, với thời gian ngâm lâu, có xu hướng chiết xuất nhiều caffeine hơn so với espresso hay pour over. Ngoài ra, loại hạt cà phê cũng có vai trò quyết định. Arabica thường có lượng caffeine thấp hơn Robusta, do đó nếu bạn muốn nhiều caffeine, việc chọn loại hạt phù hợp là điều cần thiết.

Caffeine và hương vị: Không phải lúc nào cũng tương quan

Có thể thấy rằng, mặc dù hương vị của cà phê rang đậm có thể mạnh mẽ hơn, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc nó chứa nhiều caffeine hơn. Để kiểm soát lượng caffeine trong tách cà phê của mình, bạn có thể thay đổi loại hạt, cách đo lường hoặc phương pháp pha chế.

Lời kết

Cà phê là một thế giới đa dạng và phức tạp, nơi mà mỗi yếu tố nhỏ đều có thể thay đổi trải nghiệm của bạn. Thay vì dựa vào những ngộ nhận phổ biến, hãy chọn loại cà phê, cách pha chế và phương pháp đo lường phù hợp với khẩu vị và nhu cầu của bạn. Cà phê, sau tất cả, là để thưởng thức từng khoảnh khắc một cách trọn vẹn và đầy đam mê!
Chúc bạn tìm được loại cà phê hoàn hảo và tận hưởng từng giọt cà phê như một nghệ thuật!

Wednesday, September 18, 2024

Ngôn ngữ của trầm cảm
Khi đang tìm kiếm ý tưởng cho luận văn thạc sĩ, tôi đọc được nghiên cứu này. Ngay lập tức, tôi cảm nhận được đây là một “nghiên cứu đinh”, mà bất kỳ thảo luận nào thuộc chủ đề sức khỏe tâm thần và phong cách giao tiếp cũng có thể trích dẫn. Vì vậy, tôi viết bài này để chia sẻ lại nghiên cứu; lúc đầu chỉ tính tóm tắt thật nhanh, ai dè càng viết càng thấy có nhiều thứ phải làm rõ. Bài viết 7.000 chữ này là kết quả sau hơn một tuần viết-đọc-sửa.

A. NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu có tên “Language use of depressed and depression-vulnerable college students” (ngôn ngữ sử dụng bởi sinh viên đại học đã và đang bị trầm cảm), được xuất bản năm 2010 trên tạp chí Cognition and Emotion. Tác giả của nghiên cứu là Stephanie Rude, Eva-Maria Gortner và James Pennebaker.
Câu hỏi nghiên cứu: Ngôn ngữ của người trầm cảm có gì khác so với người khỏe mạnh không? Nếu có thì những khác biệt đó là gì và cơ chế tâm lý đằng sau ra sao?
(Ghi chú: Xu hướng nổi lên trong nhiều năm gần đây phản đối cách gọi “người trầm cảm”, thay vào đó đề xuất cách gọi “người với trầm cảm” và các cụm từ tương tự như “người với tự kỉ”, “người với ADHD”... – cốt để tách bạch cá nhân khỏi những khó khăn của họ. Tôi ủng hộ tinh thần này. Tuy nhiên, khi thử thêm chữ “với” thì câu văn trở nên rườm rà và rất khó đọc. Trong những bài viết như thế này, sự tường minh nên được ưu tiên hơn, thế nên tôi vẫn giữ cách gọi cũ.)
Phần đầu của bài viết, tôi tóm tắt nghiên cứu trong vòng 2.300 chữ. Phần sau sẽ chuyển sang bàn luận những ý tưởng thú vị liên quan.

I. NỀN TẢNG LÝ THUYẾT

Có ba lý thuyết được sử dụng làm nền tảng cho nghiên cứu.
➺ Thứ nhất là màng lọc tiêu cực của Aaron Beck (1967). Đây là lý thuyết phổ biến nhất về trầm cảm, có thể xem là chính lưu của tâm lý học hiện đại. Beck là một trong những cha đẻ của liệu pháp nhận thức hành vi (CBT). Ông cho rằng những người có xu hướng trầm cảm thường sở hữu các lược đồ nhuốm màu trầm buồn, khiến họ nhìn bản thân và thế giới dưới lăng kính tiêu cực.
Lược đồ (schema) là những cấu trúc nhận thức đã ăn sâu trong tâm trí của một người (thậm chí là bẩm sinh), là màng lọc giúp họ diễn giải thế giới và tấm bản đồ giúp họ lèo lái bản thân trong thế giới đó. Khái niệm lược đồ của Beck gần với khái niệm complex (phức cảm) của Jung và scheme (trong tiếng Việt cũng được dịch là lược đồ) của Piaget. Theo tôi thì những khái niệm này đều giống nhau, chỉ khác là mỗi từ đại diện cho một tác giả và một bối cảnh sử dụng cụ thể; không cần bứng rễ khái niệm ra khỏi văn cảnh để so sánh với nhau (như một số người vẫn làm, mà tôi cho là không để làm gì).
Tại sao con người cần những lược đồ? Thế giới vốn phức tạp và hỗn loạn, lược đồ là công cụ hiệu quả để giảm tải lượng thông tin não bộ phải xử lý. Vì vậy, mọi người đều có những lược đồ nhận thức; họ vận hành theo các lược đồ và không thể sống thiếu chúng – giống như một chiếc máy tính không thể hoạt động nếu thiếu những đoạn mã. Khi cá nhân gặp một sự kiện thì những lược đồ tương ứng sẽ được kích hoạt, ngay lập tức một gói phản ứng – gồm niềm tin, ký ức, cảm xúc, sinh lý, thái độ, suy nghĩ, kỳ vọng, hành vi… – sẽ được nạp vào trong tâm trí. Chúng được nạp một cách tự động, mang tính xâm nhập và cá nhân không thể kiểm soát, thậm chí không ý thức được.


Trong đa số trường hợp, những lược đồ hoạt động rất hiệu quả. Nhưng đối với một số người, trong một số hoàn cảnh, những lược đồ tỏ ra thiếu thích nghi, gây nên nhiều vấn đề – bao gồm cả trầm cảm. Rất nhiều nghiên cứu đã ủng hộ giả thuyết này: người trầm cảm có những góc nhìn tương đối tiêu cực (Hamilton & Abramson, 1983; Hollon, Kendall, & Lumry, 1986l Krantz & Rude, 1984; Rude, Krantz, & Rosenhan, 1988).
➺ Thứ hai là vòng lặp tự nhận thức của Pyszczynski & Greenberg (1987). Đây là lý thuyết có thể gây tranh cãi, bởi vì nó đi ngược lại tinh thần thời đại: tập trung vào bản thân, thấu hiểu bản thân, phát triển bản thân, yêu thương bản thân… Nhưng có lẽ như Lão Tử đã nói “vật cực tất phản”.
Mọi chuyện xuất phát từ quan sát của Duval và Wicklund (1972) về hiện tượng tập trung chú ý vào bản thân (self-focus attention). Theo đó, khi một người tập trung sự chú ý vào bản thân, đó là lúc người này khởi động quá trình tự đánh giá. Trong quá trình này, cá nhân xem xét những khía cạnh “nổi cộm” của mình (những khía cạnh mà bị tình huống hiện tại kích hoạt), so sánh chúng với tiêu chuẩn hoặc khát vọng của họ. Nếu đạt hoặc vượt tiêu chuẩn, cảm xúc tích cực sẽ xuất hiện. Ngược lại, khi không đạt tiêu chuẩn, cảm xúc tiêu cực xuất hiện. Để giảm thiểu cảm xúc tiêu cực, cá nhân sẽ nỗ lực cải thiện khía cạnh đó hoặc chấm dứt quá trình tự đánh giá.
Carver và Scheier (1981) tích hợp lý thuyết trên với nhãn quan điều khiển học (cybernetics) – cách tiếp cận cho rằng mọi sinh thể là các hệ thống tự điều chỉnh, để thích nghi với môi trường và đạt được mục tiêu mong muốn. Theo đó, tập trung vào bản thân (và tự đánh giá) là một phần của cơ chế tự điều chỉnh (self-regulatory), giữ cá nhân đi đúng hướng. Cụ thể, khi một người tập trung vào bản thân là lúc người đó so sánh một khía cạnh nổi cộm (bị kích hoạt bởi tình huống) với các tiêu chuẩn của mình. Nếu đạt hoặc vượt tiêu chuẩn, vòng lặp sẽ chấm dứt, dừng quá trình tập trung vào bản thân. Nếu không đạt được tiêu chuẩn, vòng lặp kiểm tra-hành động-kiểm tra sẽ được kích hoạt cho đến khi nào cá nhân đạt được tiêu chuẩn thì thôi. Đôi lúc, dù cố gắng cách mấy thì cá nhân vẫn không đạt được tiêu chuẩn, đó là khi họ chấp nhận thất bại, rút lui khỏi quá trình và hứng chịu cảm xúc tiêu cực phát sinh từ đó (khác với lý thuyết ở trên, với mô hình này thì phải đến khi rút lui khỏi quá trình thì cảm xúc tiêu cực mới xuất hiện).

Từ đây, Pyszczynski & Greenberg tích hợp thêm cách diễn giải của phân tâm học về trầm cảm và đưa ra một lý giải tổng hợp: Khi cá nhân trải qua mất mát lớn – mất đi một nguồn lực cấu thành giá trị bản thân – cá nhân sẽ bước vào quá trình tự điều chỉnh, ở đó người này sẽ tập trung toàn bộ sự chú ý vào bên trong để tự đánh giá và tìm kiếm một nguồn lực tương đương để bù đắp; trầm cảm xảy ra khi quá trình này không thể kết thúc, cá nhân mắc kẹt trong vòng lặp tự điều chỉnh (mà thất bại liên tục), không ngừng chú ý vào khuyết điểm của bản thân, kết quả là ngập tràn trong cảm xúc tiêu cực và duy trì một hình ảnh tiêu cực về bản thân.
Nhiều nghiên cứu đã ủng hộ giả thuyết này: người trầm cảm có xu hướng đổ dồn sự chú ý vào bản thân (Ingram, Lumry, Cruet, & Sieber, 1988; Smith & Greenberg, 1981).
➺ Thứ ba là mô hình thờ ơ xã hội của Emil Durkheim (1951). Đây là một lý thuyết động chạm tới vấn đề rất nhạy cảm, khiến tôi khá dè chừng khi viết. Nếu bạn đọc xong và cảm thấy không yên, hãy kéo xuống phần bàn luận (mục III), hy vọng chia sẻ trong mục đó sẽ giúp bạn cảm thấy dễ chịu hơn.
Mô hình này cho rằng yếu tố then chốt dẫn đến tự sát là việc tách rời khỏi đời sống xã hội. Ông gọi đây là dạng “tự sát vị kỷ”, khi mà một người không có bất kỳ ràng buộc nào với các mạng lưới bên ngoài, lâu dần dẫn đến lẽ sống bị xói mòn, sự vô cảm, u sầu và trầm cảm; nhìn chung là không còn gì níu kéo họ ở lại với cuộc sống.
Mất kết nối không phải chuyện đùa. Cảm giác được thuộc về là một trong những nhu cầu căn bản của con người. Bị từ chối trong bối cảnh xã hội có cảm giác không khác gì một cơn đau vật lý – hai dạng đau chia sẻ cùng một mạng lưới thần kinh (Eisenberger, Lieberman, & Williams, 2003). Không chỉ vậy, khi kết nối với một nhóm xã hội, cá nhân cũng sẽ được thừa hưởng hệ giá trị, truyền thống, chuẩn mực và mục tiêu đã được xác định rõ ràng – không ai có thể sống thiếu chúng và cũng hiếm ai có thể xây dựng được những yếu tố này một mình.
Trầm cảm không nhất thiết dẫn đến với tự sát, phải khẳng định rõ ràng điều này. Nhưng hai vấn đề liên quan đến nhau và có thể cùng chia sẻ nguyên nhân nền tảng: sự thờ ơ/không tham dự với xã hội.

II. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Từ nền tảng lý thuyết trên, chúng ta có thể kỳ vọng nội dung viết bởi những người có xu hướng trầm cảm (so với người khỏe mạnh) sẽ:

✤ Chứa nhiều từ ngữ mang sắc thái tiêu cực ✤ Chứa nhiều đại từ ngôi thứ nhất số ít (“I”, “me”, “my”) ✤ Chứa ít đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (“we”, “us”, “our”) ✤ Không đề cập nhiều tới cộng đồng và xã hội
Đồng thời, các nhà nghiên cứu cũng muốn khám phá phong cách viết của những người đã từng trầm cảm (hiện nay không còn). Các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra: Những cá nhân đã-từng-trầm-cảm thể hiện phong cách suy nghĩ tương đối giống người chưa-từng-trầm-cảm, nhưng họ sẽ quay về phong cách suy nghĩ tương tự người đang-trầm-cảm trong trường hợp (1) khi cảm xúc tiêu cực bị kích hoạt (Ingram, Bernet, & McLaughlin, 1994; Ingram, Miranda, & Segal, 1998; Miranda, Gross, Persons, & Hahn, 1998; Miranda & Persons, 1988; Miranda, Persons, & Byers, 1990), (2) khi ý chí bị bào mòn do quá tải nhận thức hoặc sự chú ý bị suy giảm (Wenzlaff, 1988, 1993; Wenzlaff, Rude, Taylor, Stultz, & Sweatt, 2001; Wenzlaff, Rude, & West, 2002).
Các nhà nghiên cứu dự đoán rằng: đối với nhóm này thì phần đầu bài viết sẽ không có gì khác biệt, nhựng càng về cuối (khi thời gian sắp hết và đã thấm mệt) thì họ không còn kiểm soát được văn phong và bắt đầu thể hiện phong cách giống như người đang trầm cảm.

III. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Người tham gia nghiên cứu (nghiệm thể) là những sinh viên thuộc lớp Tâm lý học đại cương ở Đại học Texas.
Các công cụ đo lường bao gồm bảng hỏi “Beck Depression Inventory” để sàng lọc những bạn đang trầm cảm, bảng hỏi “Inventory to Diagnose Depression-Lifetime” để sàng lọc những bạn đã từng trầm cảm, phần mềm “Linguistic Inquiry and Word Count” để phân tích các bài viết.
Quy trình thực hiện nghiên cứu gồm bốn bước (1) Trả lời bảng hỏi để xếp thành ba nhóm “đã-từng”, “đang” và “chưa-từng” trầm cảm, (2) Viết 20 phút về chủ đề “những suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc nhất khi bước chân vào đại học”, (3) Phân tách mỗi bài viết thành ba phần – mở, thân, kết – rồi sử dụng phần mềm phân tích từ vựng, (4) Sử dụng các kỹ thuật thống kê – t test và ANOVA – để so sánh giữa các nhóm.

IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

So sánh giữa nhóm đang-trầm-cảm và nhóm chưa-từng-trầm-cảm, kết quả như sau:

✤ Đại từ ngôi thứ nhất số ít: Đúng như dự đoán, nhóm đang-trầm-cảm sử dụng nhiều từ “I” hơn, nhưng không có khác biệt trong cách sử dụng từ “me” hoặc “my” (rất thú vị!). ✤ Từ vựng chỉ cảm xúc tiêu cực: Đúng như dự đoán, nhóm đang-trầm-cảm sử dụng nhiều từ mang cảm xúc tiêu cực hơn, kèm theo đó là sử dụng ít từ vựng chỉ cảm xúc tích cực hơn. ✤ Đề cập tới xã hội: Thú vị thay, không có sự khác biệt nào giữa hai nhóm. ✤ Đại từ ngôi thứ nhất số nhiều: Tiếc thay, có lẽ bởi vì câu hỏi đề bài (hỏi về trải nghiệm cá nhân) nên cả hai nhóm đều sử dụng rất ít đại từ ngôi thứ nhất số nhiều; không đủ để so sánh.
So sánh giữa nhóm đã-từng-trầm-cảm với nhóm chưa-từng-trầm-cảm, kết quả như sau:

✤ Phân tích toàn bài viết: Đúng như dự đoán, không có bất kỳ khác biệt nào trong cách sử dụng đại từ ngôi thứ nhất số ít, từ vựng chỉ cảm xúc tích cực, tiêu cực, hay tần suất đề cập tới xã hội. ✤ Phân tích từng phần bài viết: Đúng như dự đoán, sự khác biệt xuất hiện trong phần kết của bài viết. Nhóm đã-từng-trầm-cảm sử dụng nhiều từ “I” hơn hẳn (“me”, “my”, “myself” cũng có sử dụng nhiều hơn một chút). Tuy nhiên, vẫn không có sự khác biệt nào trong các từ vựng chỉ cảm xúc tích cực, tiêu cực và tần suất đề cập tới xã hội.
Tóm lại: Chúng ta có thể thấy ngoài đặc điểm thường được nhắc đến là “màng lọc tiêu cực” thì những cá nhân có xu hướng trầm cảm cũng được đặc trưng bởi yếu tố “tự nhận thức quá mức”. Không tìm được bằng chứng cho sự thờ ơ xã hội.
Người đã-từng-trầm-cảm có xu hướng kháng cự và chối bỏ những suy nghĩ tiêu cực đã từng bủa vây lấy mình. Lấy ví dụ, trong bài viết của một người thuộc nhóm đã-từng-trầm-cảm, với tỷ lệ sử dụng từ “I” cao nhất, có những đoạn như sau: “Kể từ khi bước vào đại học, tôi cảm thấy rất cô đơn. Điều này không có nghĩa là tôi không có khoảng thời gian tuyệt vời, nhưng mà…” và “Tôi chưa bao giờ nói với bất kỳ ai nếu tôi căng thẳng hoặc buồn rầu, tôi chỉ đóng chai những cảm xúc đó lại…”; cuối bài viết là một đề nghị đầy mủi lòng: “Xin đừng phân tích phản hồi này của tôi và nghĩ rằng tôi điên loạn, tôi không…”
Dù sao thì kết quả trên phù hợp với những nghiên cứu trước đó. Nổi tiếng nhất phải kể đến nghiên cứu của Stirman và Pennebaker (2001). Hai tác giả cũng sử dụng phần mềm Linguistic Inquiry and Word Count để phân tích ngôn từ của những nhà thơ đã tự sát, phát hiện ra họ sử dụng nhiều đại từ ngôi thứ nhất số ít (“I”, “me”, “my”) và ít đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (“we”, “us”, “our”) hơn hẳn mẫu dân số chung.


B. BÀN LUẬN

Đến lượt tôi bàn luận những ý tưởng thú vị liên quan tới nghiên cứu.

I. LIỆU VĂN CÓ PHẢI LÀ NGƯỜI?

Tiền giả định của nghiên cứu là phong cách suy nghĩ thường ngày được thể hiện trên văn bản viết.
Trong phạm vi của nghiên cứu, chúng ta thấy tiền giả định trên tỏ ra hiệu quả. Những người đang trầm cảm thể hiện không giấu giếm các mô thức suy nghĩ tiêu cực của mình. Còn đối với những người đã-từng-trầm-cảm, mặc dù ban đầu có một chút kháng cự trong việc bộc lộ những suy nghĩ đó, đến cuối cùng cũng để cho chúng được phơi bày; hoặc ta cũng có thể nói rằng họ đã vượt qua phong cách suy nghĩ xưa kia và những gì bộc lộ hiện tại chỉ là một chú tàn dư. Dù sao thì, chúng ta thấy được văn phong khác biệt giữa ba nhóm, thể hiện các cơ chế tâm lí đặc trưng.
Đến đây ta tự hỏi: Liệu có thể mang tiền giả định đó ra ngoài đời thật? Rằng có thể đọc văn của một người và đưa ra những phán đoán chuẩn xác về đặc điểm nội tâm của họ? Trong văn hóa dân gian, nhiều người cho là được – thể hiện qua câu nói “văn tức là người”.
Có nhiều cách diễn giải, huyền thoại cũng như tranh cãi xung quanh câu nói này. Một số cho là hiển nhiên. Số khác thận trọng. Cũng có người đặt dấu hỏi lớn về nguồn gốc và mục đích thực sự của câu nói.

Quan điểm của tôi thuộc nhóm thận trọng: vô cùng khó nhưng vẫn có thể.

Đầu tiên, vô cùng khó là bởi vì tôi không tin rằng chúng ta có thể suy luận một cách thô thiển và máy móc từ văn (ý tưởng lẫn phong cách viết) của một người sang tính cách của người đó – kiểu song ánh 1-1 trong toán học ấy: viết xã luận thì quạu cọ, viết bài điều tra thì tọc mạch, viết thể loại châm biết thì khinh khỉnh, viết tấn công thì cay nghiệt, viết tản văn thì thơ thẩn suốt ngày, viết tài liệu kỹ thuật thì thô ráp như rễ tre... Tất cả những suy luận kiểu này cao nhất có thể xếp vào dạng đoán mò, còn không thì sẽ là dựng người rơm một cách ác ý. Tâm lý con người không hoạt động theo kiểu đó.
Chúng ta cần nhắc nhở nhau rằng viết lách là một hoạt động có sự can dự sâu sắc của ý thức và người viết cần tính toán chi li mỗi lần đặt bút xuống (hoặc gõ phím). Đối với những tác giả có thâm niên thì từng câu, từng chữ đều có ý đồ. Bản thân tôi không tự nhận là một cây bút lão luyện, nhưng tôi đắn đo đến từng dấu chấm, dấu phẩy, rị mọ chỉnh sửa từng ngoặc đơn, ngoặc kép trong bài này; cốt để tạo ra hiệu ứng mong muốn nơi người đọc.
Văn học luôn là một hình thức biểu đạt mang nặng lí tính. Ngay cả một cây bút mơ mộng nhất, thông qua các tác phẩm của mình, cũng không bộc lộ tiềm thức nhiều đến cái mức mà những người họa sĩ trường phái tả thực để lộ trong các tác phẩm của họ. Trong tất cả các loại hình nghệ thuật, có lẽ chỉ có nhạc công cổ điển là lí tính và tính toán hơn cả người viết văn. Theo lẽ đó, khi đọc một bài viết, phần nhiều những thứ chúng ta thấy được là do tác giả muốn cho chúng ta thấy, chứ rất ít những phần được che đậy kín đáo bị vô tình phóng chiếu lên tác phẩm. Vô cùng khó để đoán định con người đứng sau một bài viết. Kỹ càng thuật cao, viết càng chăm chút, tác giả càng lẩn khuất.
Nhưng đồng thời, tôi cũng tin rằng nếu tiếp cận một cách tinh tế hơn, chúng ta có thể diễn giải được một chút xu hướng tâm lý của cá nhân đằng sau văn bản. Không ít lần tôi đọc một bài viết và không thể không băn khoăn: “Người này là sao vậy nhỉ?”. Như gần đây, khi đọc bài đăng của một họa sĩ, tôi đã nảy lên suy nghĩ rằng cô ấy là người tự kỉ; bởi vì bài viết tuyến tính một cách cứng nhắc và thiếu mất sự linh hoạt từ các góc nhìn bên ngoài. Hoặc nếu bạn đang muốn nói đùa mà phải gói ghém cái sự bông đùa của mình vào trong dấu ngoặc kép (“”) hay in nghiêng thì tôi từ chối tin rằng bạn là một người hóm hỉnh tự nhiên và hẳn rằng bạn cũng chẳng tự tin về khiếu hài hước của mình. Công bằng mà nói thì đây cũng chỉ là một dạng đoán mò không hơn không kém. Vậy mà tôi lại khá tin vào chúng. Vì sao ư?
Như này nhé, giống như nghiên cứu phía trên chỉ ra: từ tôi (“I”) thể hiện rất nhiều thứ – bởi vì mọi người cho rằng nó không thể hiện bất cứ điều gì. Khi viết, chúng ta ít phòng bị với nó hơn. Trong khi đó những từ như “buồn”, “cô đơn”, “sợ hãi”, “lo âu”... thì lại thể hiện rất nhiều điều; khi viết chúng ta đặc biệt chú tâm vào chúng và bóp méo cái sự thật bên trong tâm trí của mình. Theo đó, tôi tin rằng chúng ta khó lòng suy luận được nhiều điều hữu ích thông qua những dấu hiệu hiển nhiên và có thể suy luận được rất nhiều thứ từ những dấu hiệu không mấy rõ ràng. Giống như khi quan sát ngôn ngữ cơ thể, chúng ta sẽ quan sát những dấu hiệu vi tế, những phản xạ bộc phát, những thớ cơ trơn không thể kiểm soát trên khuôn mặt – chứ giọng nói, nụ cười và ánh mắt vốn đã được rèn luyện đến nát bấy bởi những chuyên gia giao tiếp có thể gây nhầm lẫn.
Tiếp theo, cũng tương tự như ngôn ngữ cơ thể, văn của một người mang tính cá nhân hóa rất cao. Người này ngồi tựa vào ghế là do họ cảm thấy thoải mái, nhưng người kia là do họ đang đau lưng. Người này chớp mắt mỗi khi nói xạo, nhưng người kia là do xúc động. Thế nên sẽ không có công thức chung nào hết. Thay vào đó, để phân tích văn của một người, trước hết chúng ta cần nắm được thói quen viết lách (có thể xem là phản ứng mặc định) của người đó. Từ đó, chúng ta mới có tiêu chuẩn để đối sánh mỗi khi họ làm cái gì đó lệch với điều thông thường.
Lấy ví dụ, nếu một người luôn kết thúc ý quan trọng bằng lời kêu gọi, nhưng hôm nay lại không làm thế. Ta có thể đặt ra giả thuyết rằng có cái gì đó khác đi trong tâm trí họ. Không chắc chắn ư? Chia sẻ thật lòng hơn ư? Nhưng tất nhiên, một lần nữa phải nhắc lại, những cây bút điêu luyện sẽ không ngừng phá vỡ thói quen của họ để tránh lối mòn. Có thể cái sự bất thường chúng ta quan sát được là có chủ đích.
Ngược lại, chúng ta có thể kỳ vọng rằng đối với một cây bút tập sự thì khi phải viết những bài dài, thời hạn gấp rút, nội dung phức tạp, gánh nặng tinh thần lớn thì họ sẽ bộc lộ nhiều phản xạ mặc định hơn. Điều này đã được chứng minh trong nghiên cứu trên, khi nhận thức bị quá tải, ý chí không kiểm soát được văn phong nữa, những thói quen cố hữu và phản xạ chân thật sẽ được trồi lên.
Nói là vậy, nhưng quan điểm của tôi vẫn là hãy cẩn thận với những suy đoán của mình. Xem việc phân tích văn của người khác là một trò vui kích thích trí tuệ không hơn không kém, chứ tôi không bao giờ khuyến khích đoán mò về người khác; như vậy thì vừa ảo tưởng, vừa xâm phạm đời tư. (Riêng mấy thanh niên mà mỗi câu xuống dòng một lần thì đích thị là dân lùa gà, không có gì để bao biện!)

II. BẠN CÓ THẮC MẮC VỀ CÁC KẾT LUẬN XOAY QUANH CHỮ “TÔI”?

Trong toàn bộ nghiên cứu trên, kết luận khiến tôi chú ý nhất là ý nghĩa ngầm ẩn của chữ tôi (“I”). Đây có thể là ý tưởng giúp chúng ta đánh giá lại một số niềm tin phổ biến.
Nhắc lại khái niệm được đề cập trong nghiên cứu là sự “chú ý tập trung vào bản thân” (self-focus attention) như một phần của cơ chế tự điều chỉnh (self-regulation). Trong quá trình đó, cá nhân quan sát các khía cạnh của mình và đánh giá xem chúng có đạt tiêu chuẩn hay chưa.
Ta có thể nói rằng hiện tượng này chia sẻ cơ chế tương tự như việc phát triển bản thân. Dưới nhãn quan điều khiển học, phát triển bản thân cũng là một cơ chế tự điều chỉnh, khi cá nhân sử dụng những phản hồi từ bên ngoài để cải thiện chính mình, từ đó tăng cơ hội đạt được mục tiêu mong muốn. Khởi đầu của quá trình phát triển bản thân cũng là quan sát/nhận thức đúng đắn về con người hiện tại, chọn một điểm để cải thiện, đánh giá nó với các tiêu chuẩn và bắt đầu rèn luyện. Giống như một bác sĩ thẩm mĩ, muốn làm cho bộ phận nào đẹp hơn thì trước hết phải tập trung quan sát chỗ đó, xem xét, đánh giá, mường tượng các khả năng, rồi mới bắt đầu phẫu thuật.
Khác biệt duy nhất chắc có lẽ là quá trình tự diều chỉnh của trầm cảm khởi phát sau khi cá nhân đột ngột mất đi một nguồn lực quan trọng (như mất đi một người thân, chia tay người yêu, thi rớt một kỳ thi…), còn phát triển bản thân xuất phát từ việc không hài lòng với hiện tại và muốn trở thành một thứ gì đó to lớn hơn nữa. Nhưng đồng thời, cũng có thể tranh luận rằng hai xuất phát điểm này không có gì khác nhau, bởi vì không hài lòng có nghĩa là mất đi sự hài lòng trước đó; mất mát trong hình ảnh bản thân (self-image)/khái niệm bản thân (self-concept) là một dạng mất mát đầy đau đớn.
Như vậy, quá trình phát triển bản thân chứa đựng rủi ro đáng kể cho sức khỏe tâm trí. Hãy bóc tách quá trình này để đánh giá nó.
Đầu tiên, hãy nói về sự chú ý tập trung vào bản thân, như chúng ta đã biết, đây là tiền đề dẫn đến cảm xúc tiêu cực lẫn tích cực. Nhưng bởi vì mục tiêu của chúng ta đang là tìm ra khuyết điểm để phát triển, cảm xúc chủ đạo trong quá trình này hẳn phải là tiêu cực.
Quan tâm tới chính mình thì có gì xấu cơ chứ? – ta có thể phản biện. Không kết nối với chính mình, không nhận thức sâu sắc về bản thân, không yêu thương và cải thiện mình mỗi ngày, thì làm sao đạt được hạnh phúc trọn vẹn?
Được rồi! Trước hết chúng ta cần làm rõ với nhau rằng “cảm xúc tiêu cực” không phải lúc nào cũng “xấu” và “nên tránh xa”. Cảm xúc được định nghĩa là một phản ứng sinh lí mang tính ngắn hạn. Cuộc đời con người thì lại dài đằng đẵng. Lợi ích trong ngắn hạn đôi khi không mang đến lợi ích trong dài hạn. Cảm xúc tiêu cực có chức năng của nó. Và thật ra lúc nào cũng cảm thấy tích cực với bản thân có khi lại là vấn đề khác, ái kỷ chẳng hạn. Vậy thì, tạm thời không bàn chuyện này là tốt hay xấu, hãy chỉ bàn xem nó có dễ tạo ra cảm xúc tiêu cực hay không mà thôi.
Và câu trả lời, trong phần lớn trường hợp, là “có”. Não trạng mặc định của con người luôn tìm cách nhận diện và phòng tránh rủi ro, tập trung vào bản thân gần như sẽ soi sáng những khía cạnh làm chúng ta cảm thấy không hài lòng. Tôi tin rằng đây là một ý tưởng thoạt nghe rất kỳ lạ, nhưng một khi đã suy nghĩ về nó thì hàng loạt trải nghiệm liên quan tràn về trong ký ức. Hãy nhớ về cái lần bạn đang nói chuyện rất hăng say với bạn bè, đột nhiên sự chú ý quét qua một khuyết điểm nào đó của bản thân, ví dụ giọng nói không chuẩn, nụ cười không tươi, ánh mắt không biết đặt đâu cho phải đạo…, thế là cuộc vui tan biến và ta thu rút vào trong những nỗi bất an của bản thân. Để đảo nghịch quá trình trên, cũng chỉ cần chuyển sự chú ý từ bản thân ra bên ngoài, thay vì lắng nghe chính mình thì lắng nghe câu chuyện của đứa bạn, thay vì quan sát khuôn mặt của mình thì nhìn vào nụ cười của mọi người, thay vì suy nghĩ về thứ để nói tiếp theo thì cuốn theo bất kỳ nội dung nào đang được bàn luận. Nhưng tất nhiên, như vậy thì quá trình tự điều chỉnh/phát triển bản thân chấm dứt (ít nhất trên mặt ý thức).
Tiếp theo, hãy nói về gánh nặng của sự tự điều chỉnh. Để thật sự thay đổi điều gì, trước hết ta cần tự chịu trách nhiệm về kết quả không như mong muốn đó. Nếu bài kiểm tra bị điểm kém, đó là do mình lười biếng và học chưa đúng phương pháp. Nếu bạn bè không yêu mến mình, đó là do mình chưa phát triển đầy đủ các kỹ năng xã hội hoặc là do mình chọn bạn không tốt. Nếu cơ thể không đạt chuẩn siêu mẫu, đó là do mình ăn uống và tập luyện chưa hiệu quả. Thậm chí, nếu mình gặp chuyện xui rủi trên đường, cũng là do mình chưa dự trù được các tình huống có thể xảy ra (hoặc là do chưa học được thuật bấm độn). Có nhiều cách giải thích khác, có khi còn hợp lý hơn những cách giải thích phía trên, tuy nhiên nếu không nhận lãnh trách nhiệm về bản thân thì sự điều chỉnh sẽ không diễn ra. Vấn đề nảy sinh khi thói quen này – gọi là phong cách quy gán nội tại (internal attribution) – trở nên cứng nhắc và tạo ra gánh nặng khủng khiếp, đây là cơ chế diễn giải thế giới thường thấy ở người trầm cảm.
Cảm xúc tiêu cực trong một vài ngày không phải là vấn đề lớn, thậm chí có lợi cho sự phát triển. Nhưng khi một người bị mắc kẹt trong vòng lặp tự đánh giá-tự điều chỉnh mà không thoát ra được, cảm xúc tiêu cực tích tụ lâu ngày sẽ gây nên hỏng hóc cho toàn bộ hệ thống. Một số người nhắc đến hiện tượng “phát triển bản thân độc hại”, “yêu thương bản thân độc hại”... – mặc dù tôi không thích sử dụng nhãn dán theo kiểu bừa bãi như thế, nhưng phải công nhận là những chuyện này không hiếm trong xã hội ngày nay.
Những điều trên nghe có vẻ đi ngược với tinh thần của thời đại. Phải mất nhiều ngàn năm, thậm chí nhiều chục ngàn năm, để ý thức về cái tôi phát triển. Xã hội tiền sử chỉ tập trung vào điểm giống nhau giữa người với người, còn xã hội trung cổ chỉ tập trung vào vai trò và chức năng của mỗi người; mãi cho đến giai đoạn 1500-1800 ở phương Tây, những đặc điểm cá nhân mới được chú ý và những cuốn sách tiểu sử mới trở nên phổ biến (Weintraub, 1978; Baumeister, 1997). Con người từng chỉ có một mong muốn duy nhất là trở thành một phần của toàn thể chứ không phải tách riêng ra. Bây giờ thì ngược lại hoàn toàn. Chẳng lẽ bánh đà của lịch sử đang đẩy chúng ta đến vực thẳm hay sao?
Nói thật thì tôi không chắc, và bài viết này cũng không phải để bàn luận vấn đề xã hội. Nhưng dù sao, tôi vẫn tin rằng đi kèm sự giải phóng cá nhân là một trách nhiệm nặng nề. Ở mức độ nào đó, tôi tin và ủng hộ những thông điệp về giải phóng và phát triển bản thân. Nhưng tôi cũng tin rằng đến một mức độ nào đó, nó sẽ trở nên cực đoan và phản tác dụng. Lí lẽ ở đây rất rõ ràng: Nguồn lực tập trung có hạn. Tập trung vào bản thân có nghĩa là không tập trung vào thế giới bên ngoài. Trong khi đó, kết nối với bên ngoài là một trụ cột chính của sức khỏe tinh thần, một nguồn lực không thể bỏ qua. Cân bằng trong và ngoài tạo nên sức khỏe tâm trí lành mạnh, bất cứ sự thiên lệch nào cũng sẽ dấn đến mất cân bằng – đỉnh cao hoặc tuyệt vọng.

III. NẾU BẠN TRÚNG HẾT MỌI DẤU HIỆU TRÊN?

Cách đây nhiều năm, khi học về rối loạn nhân cách kiểu tâm thần phân liệt (Schizoid Personality Disorder), tôi rất sợ. Sợ bởi vì tôi cảm thấy liên hệ với những thứ được mô tả. Tôi sợ đến một ngày nào đó mọi người sẽ không còn chịu nổi tôi, rồi tôi sẽ sống một cuộc đời vật vờ và chết trong cô độc. Tất nhiên, tôi biết tất cả những viễn cảnh này đều vô lý, thậm chí ngớ ngẩn, nhưng biết đâu được có một hạt giống nào đó bên trong mình và chờ ngày phát tác? Kết quả là tôi không thể dừng lại các phản ứng sợ hãi. Một cảm xúc rất khó chịu, nhưng chẳng phải đó là cách mà trí tưởng tượng hoạt động hay sao?
Trầm cảm là một vấn đề nghiêm trọng và tôi sợ những thứ mình viết ra không mang lại tác dụng đồng cảm như mong đợi, mà lại được đón nhận như một lời gợi ý đầy đen tối – hiệu ứng Werther. Thế nên, tôi buộc mình viết thêm phần này, mặc dù chưa bao giờ giỏi trong việc làm người khác yên lòng.
Tôi có trải nghiệm ít nhiều với những dấu hiệu được đề cập trong bài nghiên cứu. Lúc đầu, tôi không nghĩ đó là vấn đề, thậm chí còn là biểu hiện của sự mạnh mẽ, bởi vì tôi dám phiêu bạt miền đất của sự tiêu cực, khiêm tốn giới hạn mọi thứ dưới góc nhìn cá nhân và nhu cầu duy nhất là bầu bạn với bản thân. Có những khoảng thời gian, tôi có thể tồn tại qua nhiều tháng trời mà không cần giao tiếp với bất kỳ ai – ngoài những giao dịch mua bán đời thường và một vài tin nhắn qua lại với người yêu (vợ tôi bây giờ). Thời gian Covid, tôi chơi trò sinh tồn một mình trong nhà. Thậm chí, tôi nghĩ mình đã phải lòng sự tiêu cực của bản thân và lo sợ rằng đến một ngày nào đó bỗng nhiên mình yêu đời phơi phới, mọi lo âu đều tan biết, thì khả năng viết cũng sẽ mai một.
Nhưng suy nghĩ như vậy thật cực đoan, đặc biệt là ý tưởng sau cùng; nghe chẳng khác gì mấy tay nghệ sĩ kiếm cớ chơi đá vậy. Và bây giờ tôi tin rằng khi con người ta khỏe mạnh, họ có khả năng trải nghiệm những cung bậc cảm xúc rộng hơn. Một người có cuộc sống tươi đẹp, họ có thể vui và buồn. Nhưng một người đang ngập ngụa trong mớ ngổn ngang của cuộc đời, họ chỉ có thể buồn và rất khó để vui.
Thế nên, cho dù bạn lựa chọn lối sống và thái độ với cuộc sống ra sao, tôi thực lòng khuyên rằng hãy trang bị một số chiến lược bảo vệ bản thân. Sau đây là ba chiến lược tôi cảm thấy hiệu quả.
Đối thoại với bản thân thông qua nhật ký và các bản kế hoạch. Chúng ta cần một cấu trúc để tổ chức thế giới và cuộc đời. Cấu trúc đó có thể là các câu chuyện chúng ta tự kể cho chính mình và kể cho người khác. Cấu trúc đó cũng có thể là các bản kế hoạch và thời gian biểu. Lúc trước, tôi chỉ sử dụng sổ giấy và bút viết, ghi vào đó những suy nghĩ, lo lắng, lời động viên, dự định và kế hoạch hằng ngày. Trong hoàn cảnh cô đơn thì tự trò chuyện sẽ giúp chúng ta giữ được sự tỉnh táo. Tôi sử dụng sổ bởi vì không cảm thấy bị đe dọa bởi nó. Tôi có thể viết những thứ rời rạc, vô tổ chức và đôi khi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Bây giờ thì tôi đã giỏi hơn trong trò này, vì vậy hệ thống đã trở nên phức tạp đôi chút – bao gồm một vài cái sổ, Notion Calendar và Obsdian.
Hãy yên tâm, mặc cho văn phong (và suy nghĩ) của bạn có tiêu cực đến thế nào thì việc phơi bày chúng vẫn tốt hơn là dồn nén và phủ nhận. Viết nhật ký thì không giới hạn thời gian, thế nên khi cảm xúc dịu xuống, bạn luôn có thể quay lại để bổ sung các điểm sáng, các góc nhìn đa chiều và những liên hệ tới người khác. Nếu muốn, bạn có thể ghi lại những điều mình đã làm tốt trong ngày hoặc những điều mà bạn biết ơn. Có một thời gian tôi kháng cự với hoạt động này, bởi vì tôi nghĩ nó thật ẻo lả. Nhưng thực chất phong cách suy nghĩ không tự nhiên mà có. Nó đến từ thói quen hằng ngày, vì vậy rèn luyện việc ghi nhận chính mình là điều cần thiết.
Kết nối với các mạng lưới xã hội hằng ngày. Bản thân tôi cách đây khoảng 2-3 năm đã tự cam kết với bản thân rằng sẽ nhắn tin ít nhất một người bạn mỗi ngày. Tin tôi đi, đây không phải chuyện dễ dàng gì – còn nhớ công năng đặc dị của tôi là sống một mình chứ? Để thay đổi thói quen đó, tôi đã phải nỗ lực rất nhiều, bao gồm suy nghĩ xem hôm nay nhắn cho ai, nội dung gì và vào giờ nào; nhưng cái khó nhất phải kể đến chuyện vượt qua sự kháng cự trong tâm lý. Dù gì thì tôi cũng đã thành công, nhờ đó cải thiện chất lượng cuộc sống đáng kể. Người thân, bạn bè và đồng minh là những nguồn lực quan trọng, về mặt tinh thần, vật chất lẫn xã hội - và những thứ quan trọng sẽ không đến một cách ngẫu nhiên, ta cần cố gắng vì chúng.
Ổn định lối sống. Nói thì dễ hơn làm. Khi người ta đang ở đáy của cuộc đời thì mọi thứ đều vỡ vụn. Tiền ăn hôm sau còn không có thì làm gì có chuyện diet đủ ba nhóm dưỡng chất hay tập gym cho phì đại sợi cơ (vất vả lắm mới có cái bỏ bụng, ra ngoài kia chạy một vòng lại đói meo thì sao?). Có thời điểm mà tôi ngủ cả ngày và đến tối chỉ ăn một hộp chocopie (lấy được trên bàn thờ nhà chị) để cầm cự đến ngày hôm sau. Nhưng phải nhấn mạnh rằng lối sống ổn định là tiền đề cho cả sức khỏe thể chất lẫn tâm trí. Nếu không thể sống lành mạnh, hãy cố gắng sinh hoạt theo một lịch trình có thể dự đoán – ít nhất không để đồng hồ sinh học bị đảo lộn. Quan trọng nhất trong đó là duy trì một chế độ thức-ngủ hợp lý: thức dậy khi mặt trời còn trên đỉnh, ra ngoài đường hóng nắng, tỉnh táo rồi tính tiếp. Nếu có thể vượt qua cơn sĩ của bản thân, cầu cứu mọi người là biện pháp tình thế không tồi; ít nhất phải có chốn nương thân và cái bỏ bụng, đúng chứ?
Và cuối cùng, để kết lại phần này, tôi muốn lưu ý về một nhược điểm cố hữu của phương pháp thống kê.
Mọi người thường nói đến sự khác biệt giữa tương quan và nhân quả. Nghiên cứu trên tất nhiên là tương quan. Nhưng cho dù có là nhân quả (tiêu chuẩn cao hơn của nghiên cứu khoa học) đi chăng nữa, chúng ta cũng không thể nào bỏ qua bản chất của thống kê. Phương pháp này dựa trên các con số trung bình. Mà con số trung bình thì không phải là bất cứ cá nhân nào, mặc dù nó đại diện cho tất cả cá nhân – như Jung từng viết: “Nó phản ánh một khía cạnh không thể chối cãi của thực tại, nhưng đồng thời có thể làm chúng ta nhận thức sai lệch hoàn toàn về thực tại.” (Jung, 1957; trang 17). Nếu một lớp có 10 sinh viên, điểm số lần lượt là 0, 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8,9, 10 thì điểm số trung bình đại diện cho lớp đó sẽ là 5 điểm, nhưng đồng thời không có ai trong lớp đạt 5 điểm. Hãy tưởng tượng một giáo viên nhìn vào con số này và thiết kế chương trình học xoay quanh trình độ 5 điểm, sẽ không có bất kỳ ai trong lớp hưởng lợi.
Thế nên đừng nghĩ rằng có thể suy luận được gì chắc chắn từ nghiên cứu trên. Áp dụng nó để phân tích các bài viết của bản thân hoặc người khác có khi phản tác dụng. Càng không thể sử dụng nó như một công cụ sàng lọc hay chẩn đoán. Nghiên cứu này là dữ kiện, một dữ kiện quan trọng, đã được kiểm chứng, nhưng vẫn là một dữ kiện mà thôi.
—surphi10 (Hoàng Phi), tháng 9, 2024

Tuesday, August 20, 2024

Định Luật Hubble
Các bạn có nghĩ rằng các hành tinh trong vũ trụ đều đã và đang rời xa nhau không ?. Tôi nghĩ mọi người ở đây ai cũng biết rồi, vậy các bạn có thắc mắc ai là người đưa ra lý thuyết này và chứng minh rằng nó đúng không?. Và nó đã từng đánh bại cả thuyết tương đối của Enstein như thế nào?. Và bây giờ chúng ta hãy thắt chặt dây an toàn và cùng tôi du hành về quá khứ tìm hiểu câu chuyện ly kì, hấp dẫn về thứ định luật đã góp phần trong công cuộc khám phá vũ trụ của loài người.

1.Lịch sử hình thành

Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các nhà thiên văn học bắt đầu nhận ra Ngân Hà không phải là toàn bộ vũ trụ mà chỉ là một trong vô số thiên hà. Tuy nhiên, sự hiểu biết về các thiên hà bên ngoài Ngân Hà vẫn còn rất hạn chế. Những quan sát ban đầu về các thiên hà mờ nhạt (khi đó được gọi là "tinh vân xoắn ốc") chỉ ra rằng chúng có thể là những cấu trúc khác biệt và rất xa xôi. Giới khoa học lúc bấy giờ phần lớn tin rằng vũ trụ là tĩnh, tức nó không giãn nở. Lý thuyết vũ trụ tĩnh còn được cả nhà bác học vĩ đại Enstein công nhận nên nó có một chỗ đứng rất vững chắc trong giới khoa học lúc bấy giờ. Tuy nhiên, vào năm 1927, một linh mục và nhà thiên văn học người Bỉ tên Georges Lemaître đã trở thành người đầu tiên đề xuất mô hình vũ trụ giãn nở .Lemaître đã xuất bản một bài báo trong đó ông giới thiệu mô hình vũ trụ giãn nở dựa trên thuyết tương đối rộng của Einstein. Lemaître thậm chí còn đưa ra mối quan hệ giữa khoảng cách và vận tốc của các thiên hà. Và ông lẫn Hubble còn là người đặt nền móng cho lý thuyết Big Bang sau này khi cho rằng vũ trụ bắt đầu từ một "nguyên tử nguyên thủy," một khái niệm tiền thân của lý thuyết Big Bang.

Georges Lemaître

Sau đó cũng có khá nhiều nhà khoa học nổi tiếng như Alexander Friedmann ( người đã giải các phương trình trường của thuyết tương đối rộng, và tìm ra các giải pháp mô tả một vũ trụ không tĩnh tại, có thể đang giãn nở hoặc co lại), Vesto Melvin Slipher, một nhà thiên văn học người Mỹ, đã có những đóng góp quan trọng cho việc phát hiện ra vũ trụ giãn nở thông qua việc quan sát dịch chuyển đỏ của các "tinh vân xoắn ốc",… nhưng hầu hết các nhà khoa học vẫn cho rằng vũ trụ là tĩnh. Mãi cho đến khi nhà khoa học lừng danh Edwin Hubble đưa ra định luật mang tên ông thì giới khoa học mới thừa nhận rằng vũ trụ thực ra không hề tĩnh, mà nó đang giãn nở. Nhưng trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem đi gì đã giúp ông xây dựng nên thứ lý thuyết có thể đánh bại cả Enstein nhé!

2.Định luật Hubble

Nhà thiên văn học người Mỹ Hubble có tên đầy đủ là Edwin Hubble, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1889, tại Missouri , Hoa Kỳ . mất ngày 28 tháng 9 năm 1953 ở San Marino , California. đã thực hiện những quan sát quan trọng tại Đài thiên văn Mount Wilson ở California. Sử dụng Kính viễn vọng Hooker, kính viễn vọng lớn nhất thế giới vào thời điểm đó, Hubble đã nghiên cứu các thiên hà xa xôi và xác định khoảng cách của chúng thông qua các sao biến quang Cepheid, một loại sao có độ sáng dao động định kỳ giúp xác định khoảng cách. Năm 1929, Hubble công bố kết quả nghiên cứu của mình, cho thấy rằng các thiên hà đang di chuyển ra xa khỏi chúng ta với vận tốc tỉ lệ thuận với khoảng cách của chúng. Phát hiện này đã dẫn đến sự hình thành của Định luật Hubble.

Edwin Hubble

Bây giờ tôi sẽ trình bày 3 vấn đề chính của định luật Hubble theo cách dễ hiểu nhất như sau. Ý thứ nhất, cũng chính là ý quan trọng nhất.nó phát biểu rằng tốc độ mà các thiên hà di chuyển ra xa Trái Đất tỉ lệ thuận với khoảng cách của chúng đến Trái Đất. Có nghĩa là khi một thiên hà ở khoảng cách càng xa so với trái đất ( vật được chọn làm điểm mốc) thì tốc độ nó rời xa trái đất càng nhanh. Giả dụ như một thiên hà cách trái đất 100 năm ánh sáng sẽ có tốc độ rời xa hành tinh xanh nhanh hơn so với một thiên hà cách trái đất 50 năm ánh sáng. Và định luật Hubble được biểu diễn dưới dạng công thức như sau:

V=H0.d

Trong đó:
v là tốc độ mà thiên hà đang di chuyển ra xa (thường được đo bằng km/s).
H0​ là hằng số Hubble, đại diện cho tốc độ giãn nở của vũ trụ. Hằng số này có đơn vị là km/s/Mpc (Mpc: mega Par-sec)
d là khoảng cách từ thiên hà đó đến Trái Đất (thường được đo bằng megaparsec).

Chắc hẳn mọi người ai cũng thắc mắc Parsec và megaparsec là gì phải không?. Đơn vị parsec lần đầu được đề xuất bởi nhà thiên văn học người Anh Herbert Hall Turner vào năm 1913. Ý tưởng là tạo ra một đơn vị đo khoảng cách dựa trên thị sai, một hiện tượng quan sát thiên văn học được sử dụng để đo khoảng cách tới các ngô sao gần. Parsec là một đơn vị đo quan trọng trong thiên văn học, giúp các nhà khoa học đo lường và hiểu rõ hơn về cấu trúc và quy mô của vũ trụ. Parsec (ký hiệu là "pc") là một đơn vị đo khoảng cách được sử dụng trong thiên văn học, chủ yếu để đo khoảng cách tới các ngôi sao và các vật thể khác ngoài hệ Mặt Trời. Từ "parsec" được tạo thành từ hai phần: "parallax" (thị sai) và "arcsecond" (giây cung). Parsec được định nghĩa là khoảng cách tại đó một ngôi sao sẽ có thị sai (parallax) bằng 1 giây cung khi được quan sát từ hai vị trí cách nhau 1 đơn vị thiên văn (AU), tức là khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời. Nếu quy đổi ra năm ánh sáng thì một parsec sẽ có giá trị bằng khoảng 3,26 năm ánh sáng, hoặc 3,086×10¹³ km (30,86 nghìn tỷ km). Và 1 megaparsec= 1.000.000 parsec.

Đơn vị đo khoảng cách Parsec

Quay trở lại với nội dung của định luật. Sau khi tìm hiểu xong được vấn đề thứ nhất về ý nghĩa của định luật hubble. Chúng mình sẽ đi đến vấn đề thứ hai cũng quan trọng không kém, đó chính là Hằng số Hubble được ký hiệu là H0 trong công thức vừa nêu trên.Về định nghĩa thì Hằng số Hubble mô tả mối quan hệ giữa tốc độ giãn nở của vũ trụ và khoảng cách từ chúng ta đến các thiên hà xa xôi. Tuy nhiên Giá trị của hằng số Hubble​ không cố định mà phụ thuộc vào phương pháp đo lường. Các giá trị ước tính hiện nay dao động khoảng từ 67 km/s/Mpc đến 74 km/s/Mpc. Sự chênh lệch này tạo ra một "căng thẳng Hubble," một trong những vấn đề lớn trong vũ trụ học hiện đại.Vậy làm thế nào mà người ta xác định được giá trị của hằng số?. Câu trả lời là người ta sẽ sử dụng 3 phương pháp đo phổ biến nhất.
Một là Candle chuẩn (Standard Candle): Một phương pháp phổ biến là sử dụng các sao biến quang Cepheid và siêu tân tinh loại Ia làm "candle chuẩn" để đo khoảng cách đến các thiên hà, từ đó xác định H0
Thứ hai là Bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB): Phương pháp khác sử dụng dữ liệu từ bức xạ nền vi sóng vũ trụ để suy ra giá trị H0. Phương pháp này thường cho giá trị thấp hơn so với phương pháp dùng candle chuẩn.
Cuối cùng là phương pháp Thấu kính hấp dẫn: Một số nghiên cứu mới sử dụng hiệu ứng thấu kính hấp dẫn, trong đó ánh sáng từ một nguồn xa bị bẻ cong bởi trường hấp dẫn của một vật thể nằm giữa nguồn và người quan sát, để ước tính giá trị H0.

Hằng số Hubble

Vấn đề là có một sự khác biệt đáng kể giữa các giá trị H0 được đo bằng phương pháp candle chuẩn (khoảng 73-74 km/s/Mpc) và từ dữ liệu CMB (khoảng 67-68 km/s/Mpc).Tuy vậy Nguyên nhân của sự chênh lệch này vẫn chưa được hiểu rõ và có thể gợi ý rằng cần có các mô hình vũ trụ học mới hoặc rằng có các sai sót hệ thống trong các phương pháp đo lường.
Vậy là chúng ta vừa giải quyết xong 2 vấn đề chính của định luật, chỉ còn lại vấn đề cần phải giải quyết cuối cùng là mối liên hệ giữa hiện tượng dịch chuyển đỏ và định luật Hubble. Các bạn hãy nhớ lại rằng Định luật Hubble phát biểu rằng các thiên hà đang di chuyển ra xa chúng ta với tốc độ tỉ lệ thuận với khoảng cách của chúng. Điều này có nghĩa là các thiên hà càng xa thì dịch chuyển đỏ của chúng càng lớn.
Dịch chuyển đỏ là bằng chứng trực tiếp cho sự giãn nở của vũ trụ. Khi Edwin Hubble đo đạc các thiên hà ở xa, ông nhận thấy rằng tất cả các thiên hà đều có dịch chuyển đỏ, chứng tỏ chúng đang di chuyển ra xa Trái Đất. Hubble đã sử dụng dữ liệu dịch chuyển đỏ này để đi đến kết luận về sự giãn nở của vũ trụ.

Dịch chuyển đỏ

Nói cho dễ hiểu thì Dịch chuyển đỏ (Redshift) là hiện tượng khi ánh sáng hoặc bức xạ từ một nguồn phát (như các thiên hà) bị kéo dài ra, dịch chuyển về phía đỏ của quang phổ. Điều này có nghĩa là bước sóng của ánh sáng tăng lên. Trong vũ trụ học, dịch chuyển đỏ thường xảy ra do hiệu ứng Doppler hoặc do giãn nở của không gian, làm cho các thiên hà di chuyển ra xa chúng ta.
Dịch chuyển đỏ đo được có thể được sử dụng để tính toán tốc độ v của thiên hà, sau đó áp dụng định luật Hubble để xác định khoảng cách d đến thiên hà: Được kết nối với định luật Hubble qua công thức biến đổi từ công thức gốc như sau:

Người ta dùng hiện tượng dịch chuyển đỏ để Xác định khoảng cách: Bằng cách đo dịch chuyển đỏ của một thiên hà, các nhà thiên văn học có thể sử dụng Định luật Hubble để ước lượng khoảng cách tới thiên hà đó. Nó còn giúp cho các nhà khoa học lập Bản đồ vũ trụ: đó là Dữ liệu về dịch chuyển đỏ của hàng triệu thiên hà đã được sử dụng để lập bản đồ ba chiều của vũ trụ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cấu trúc và sự phân bố của vật chất trong vũ trụ.

Tóm lại:

Dịch chuyển đỏ là bằng chứng quan sát chủ yếu giúp thiết lập và xác nhận Định luật Hubble. Nó cho thấy các thiên hà đang di chuyển ra xa chúng ta và tốc độ di chuyển này tỉ lệ thuận với khoảng cách, từ đó chứng minh vũ trụ đang giãn nở. Và cũng chính nhờ định luật Hubble đã đặt những viên gạch đầu tiên cho lý thuyết Big Bang của Stephen Hawking sau này.
Và có một điều mà các bạn cần lưu ý là khi Enstein công nhận vũ trụ là tĩnh, thực ra lý thuyết tương đối của ông không hề sai, thậm chí nó còn cho ra kết quả vũ trụ đang giãn nở. Nhưng vì không tin điều ấy là sự thật nên Enstein đã thêm vào một hằng số vũ trụ để kết quả cho ra một vũ trụ tĩnh. Sau này Enstein mới thừa nhận rằng đó chính là quyết định ngu ngốc nhất của mình.
HillTFamn

Friday, August 9, 2024

Bọt trong Usucha có quan trọng không?
Tìm kiếm nhanh ‘matcha’ hoặc ‘usucha’ trên Google Images sẽ cho ra kết quả như bạn mong đợi: bọt xanh tươi trong một chiếc chawan tuyệt đẹp, với những bong bóng quá nhỏ để nhìn thấy. Mặc dù hình ảnh matcha này đã trở thành chuẩn mực, cả ở phương Tây và Nhật Bản, nhưng đây không phải là cách duy nhất để pha matcha (tìm hiểu thêm về koicha) và thậm chí không phải là cách duy nhất để pha usucha. Mỗi trường phái trà đạo trong số hàng chục trường phái rải rác khắp Nhật Bản đều có sở thích riêng khi nói đến hương vị và kết cấu của usucha, nhưng có một trường phái đã trở nên thống trị trên toàn cầu và chính ý tưởng về usucha của họ đã trở thành chuẩn mực.
Trong một thời gian, trường phái trà đạo Omotesenke là trường phái trà đạo thống trị ở Nhật Bản, và usucha mà họ làm trông khá khác so với những gì bạn có thể đã quen. Thay vì một lớp bọt dày đều, họ thích đánh usucha của mình một cách nhẹ nhàng, với một lớp bọt mỏng phủ lên một phần nổi trên các vũng nước màu xanh ngọc lục bảo đậm.
Sau Thế chiến thứ II, với sự tăng trưởng kinh tế bùng nổ của Nhật Bản, sự phổ biến của trà đạo đã được hồi sinh, tuy nhiên lần này, do một trường phái khác dẫn đầu: Urasenke, người cũng tiên phong trong việc truyền bá chanoyu ra nước ngoài và cho đến nay là trường phái lớn nhất bên ngoài Nhật Bản. Usucha của họ, được đánh mạnh với một lớp bọt mịn dày, có lẽ đã trở thành hình mẫu cho những gì chúng ta nghĩ rằng matcha trông như thế nào.
Tôi thường thấy những người mới làm quen với matcha hỏi 'làm thế nào để tôi có thể làm cho các bong bóng nhỏ hơn?' hoặc 'tại sao nó không giống như trong hình?'. Mặc dù tôi hiểu được sức hấp dẫn về mặt thẩm mỹ của usucha siêu bọt (đó là lý do tại sao chúng tôi sử dụng nó trong tất cả các bức ảnh của mình (๑>ᴗ<๑)) cùng với mong muốn cải thiện kỹ thuật đánh của mình, nhưng không ai thực sự đặt câu hỏi về tầm quan trọng của bọt này và cách nó ảnh hưởng đến hương vị và kết cấu của trà. Tóm lại: bọt có làm cho matcha ngon hơn không?
Vì vậy, ở đây tôi đang tiến hành một thí nghiệm nhỏ, so sánh bốn bát matcha với các mức bọt khác nhau để xem nó ảnh hưởng như thế nào đến cả hương vị và kết cấu của trà, đồng thời tìm ra kiểu nào phù hợp nhất với các loại matcha khác nhau.

Chuẩn bị

  1. Usucha Không có bọt - trộn đều với càng ít bọt càng tốt
  2. Usucha Bọt một phần - mô phỏng theo phong cách usucha Omotesenke: một lớp bọt mỏng phủ lên một phần
  3. Usucha Bọt mỏng - mô phỏng theo phong cách usucha Ueda Sōko: một lớp bọt mịn mỏng
  4. Usucha Bọt dày - mô phỏng theo phong cách usucha Urasenke: một lớp bọt dày, mịn
Với mỗi bát, tôi dùng 2g Umezuki và 60ml nước 80°C.
Để có độ đồng nhất, tôi pha bốn bát trà riêng lẻ, nhưng nếu bạn muốn tự mình thử, tôi khuyên bạn nên bắt đầu với một bát không có bọt, nếm thử, sau đó khuấy thêm một chút, nếm thử lại, khuấy thêm, v.v. Bằng cách này, bạn sẽ không phải uống bốn bát usucha và thức trắng đêm (っ°▿°).


Trộn đều trà mà không tạo bọt thực sự khá khó, vì vậy, bạn hoàn toàn cần phải rây thật kỹ để tránh bị vón cục. Bát trà thành phẩm có hương thơm nồng nàn, không bị bọt cản trở. Với thao tác khuấy nhẹ, trà vẫn giữ được hầu hết độ ấm. Các hạt matcha nhỏ thực sự khá đẹp khi chúng từ từ trôi nổi trong nước. Nhưng đừng nhìn chúng quá lâu: nếu không lớp bọt, bột trà sẽ nhanh chóng thoát khỏi trạng thái lơ lửng. Khi bạn uống bát trà, trà sẽ lắng xuống, vì vậy, ngụm cuối cùng sẽ đậm hơn một chút so với ngụm đầu tiên.
Hương vị sâu và tròn vị nhưng cũng có nhiều hương vị tươi sáng, sắc nét. Kết cấu khá mỏng - đặc hơn sencha nhưng không sánh bằng matcha 'chuẩn' hơn

Bát 2 - Bọt một phần (kiểu Omotesenke)



Không có sự khác biệt lớn ở đây về mặt hương vị hoặc mùi thơm so với Bát 1, nhưng tôi thấy hình thức bên ngoài khá hấp dẫn. Lớp bọt mỏng hiện diện chắc chắn làm tăng thêm một chút trải nghiệm về kết cấu, nhưng không phải là sự khác biệt lớn.
Nếu tôi phải lựa chọn giữa Bát 1 và Bát 2, tôi sẽ chọn Bát 2 chủ yếu vì bạn sẽ pha trà và nước với nhau tốt hơn.

Bát 3 - Bọt mỏng (kiểu Ueda Sōko)



Đối với những ai chưa quen với trường phái Ueda Sōko (là trường phái mà tôi đang theo học), usucha của chúng tôi được tạo ra bằng cách cầm chasen từ bên cạnh sao cho nó vuông góc với các ngón tay thay vì song song, và sử dụng chuyển động vẩy ra ngoài, thay vì chuyển động qua lại nhanh như Urasenke. Kết quả là một lớp bọt nhẹ phủ đều lên trà.
Ở đây, tác dụng của bọt trở nên đáng chú ý: hương thơm dịu hơn và hương vị trở nên dịu hơn, với các nốt sắc và tươi sáng trở nên dịu hơn một chút. Bọt cũng giúp trà giữ được lâu hơn.
Đối với những người yêu thích cà phê, kết cấu của nó hơi giống với cà phê sữa hoặc latte, mặc dù không mượt như vậy. Bọt có độ nhẹ và mềm, nhưng không quá khô và không quá đầy đến mức tràn đầy miệng bạn.

Bát 4 - Bọt dày (kiểu Urasenke)



Bây giờ, tôi có thể đã hơi quá đà, nhưng đối với tôi, phương pháp này tạo ra RẤT NHIỀU bọt. Như bạn có thể thấy trong phần tiếp theo, bát có khoảng 50% bọt theo thể tích. Lớp bọt dày này hoạt động như một loại nắp, giữ hương thơm của trà được khóa lại. Bát này chắc chắn là bát ít thơm nhất trong bốn bát. Một lần nữa, đối với những người đam mê cà phê, lớp bọt dày gợi nhớ đến lớp bọt mềm mại nhất của những tách cappuccino khô cổ điển. Nhẹ, thoáng và khô, khối lượng lớn của lớp bọt này lấp đầy miệng bạn khi bạn nhấp ngụm đầu tiên. Hiệu ứng êm dịu bắt đầu ở bát 3 thậm chí còn dễ nhận thấy hơn ở đây, với phần đầu của hương vị dịu đi đáng kể và hương vị tổng thể yếu hơn một chút.
 

SO SÁNH



Lặp lại thí nghiệm trong một chiếc bát thủy tinh cho phép chúng ta dễ dàng thấy được lượng bọt mà mỗi phương pháp tạo ra và với một số phép đo và phép toán nhanh, chúng ta có thể tính được tỷ lệ bọt-chất lỏng theo thể tích:
Bát 1: 1% bọt | 99% chất lỏng | tỷ lệ 1:99
Bát 2: ~ 5% bọt | 95% chất lỏng | tỷ lệ 1:19
Bát 3: ~ 25% bọt | 75% chất lỏng | tỷ lệ 1:3
Bát 4: ~ 50% bọt | 50% chất lỏng | tỷ lệ 1:2


Kết luận

Mặc dù cách pha trà hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích cá nhân của bạn, nhưng có một số điểm chính thú vị cần lưu ý ở đây có thể giúp bạn quyết định cách tiếp cận để đánh các loại matcha khác nhau:
Ít bọt = hương vị và mùi thơm mạnh hơn
Điều này có nghĩa là bạn có thể sử dụng ít matcha hơn cho mỗi bát usucha ít bọt hơn để đạt được mức độ mạnh tương tự như một bát siêu bọt. Nếu bạn là người hâm mộ lớn của hương thơm nồng nàn khi nước nóng gặp matcha và bạn muốn nhiều hơn thế, hãy cân nhắc sử dụng ít bọt hơn để bạn có thể cảm nhận được nhiều hương thơm hơn khi uống bát. Một số loại matcha thơm hơn những loại khác, vì vậy bạn có thể điều chỉnh theo sở thích của mình
Bọt = làm dịu các nốt hương tươi sáng và vị đắng
Ngoài việc làm giảm độ mạnh tổng thể, bọt có thể giúp làm tròn vị đắng hoặc các nốt hương quá tươi sáng. Điều này đặc biệt hữu ích đối với matcha rẻ hơn có xu hướng đắng hơn. Thật thú vị, tôi nhận thấy rằng matcha được Urasenke konomi (có nghĩa là được Iemoto [người đứng đầu trường] hoặc một thành viên cấp cao khác ưa chuộng) có xu hướng đắng hơn một chút so với matcha được các trường phái khác ưa chuộng. Có lẽ điều này liên quan đến độ bọt của usucha của họ.
Mặt trái là hiệu ứng làm dịu của bọt có thể che lấp một số hương vị mong muốn, vì vậy, bạn nên thử nghiệm với các mức bọt, đặc biệt là đối với các loại matcha cao cấp hơn có hương vị và mùi thơm phức tạp và tinh tế hơn. Nếu bạn đang so sánh nhiều loại matcha cạnh nhau, khả năng tạo bọt là một biến số, vì vậy, bạn có thể thử tất cả các loại mà không có bọt, để có được hương vị trong suốt hơn.
Bọt = kết cấu
Điều này có vẻ hiển nhiên, nhưng đáng để lưu ý. Nếu bạn không thích đồ uống siêu khô, xốp, nhiều bọt, chẳng hạn như cappuccino khô, bọt trứng trong cocktail, bia có bọt dày, v.v., thì bạn có thể muốn sử dụng ít hoặc không có bọt trong matcha của mình. Nếu bạn thích kết cấu này, thì hãy đánh nhiều bọt.
Nếu bạn quyết định muốn có nhiều bọt mịn trong matcha của mình và bạn vẫn đang vật lộn để đạt được điều này, sau đây là một số mẹo:
Sử dụng chasen. Lắc, tạo bọt sữa, đánh trứng, v.v., tất cả đều có tác dụng đưa nhiều không khí vào trà, nhưng không làm tốt công việc phá vỡ bọt này thành các bong bóng nhỏ hơn. Trong khi một chasen Nhật Bản siêu mịn, linh hoạt là lý tưởng, ngay cả một chasen Trung Quốc cứng có ít nhất 64 sợi vẫn có thể làm được điều đó
Sử dụng các động tác nhanh, mạnh, qua lại. Người pha trà Urasenke cầm chasen sao cho song song với các ngón tay và trở thành phần mở rộng của bàn tay. Từ đây, cổ tay sẽ làm tất cả công việc, nhanh chóng búng qua lại. Có thể cần phải luyện tập một chút để tăng cường sức mạnh cho cổ tay.
Để biết thêm về cách làm usucha theo phong cách Urasenke, bạn có thể đọc hướng dẫn và xem video của chúng tôi
Tôi thực sự khuyên bạn nên tự mình thử nghiệm này để xem bạn thích matcha như thế nào. Hãy cho chúng tôi biết bạn khám phá ra điều gì nhé!
Nguồn: Is foam important? comparing styles of Usucha. Tezumi.

Thursday, July 11, 2024

[Review Sách] 7 Định luật giảng dạy
Tôi nhận thấy cuốn sách “7 Định luật giảng dạy” từ tác giả John Milton Gregory (Saralen Trần - Huệ Anh dịch) tuy ngắn gọn nhưng thiết thực và hữu ích với những ai hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.


Giảng dạy vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật- nghe qua có lẽ bạn và tôi đã ấn tượng những mỹ từ này hàm ý có quá nhiều điều cần tìm hiểu, suy ngẫm, trải nghiệm. Nhưng nếu chìm ngập trong mớ lý thuyết (và tin hoàn toàn vào lý thuyết) thì bạn sẽ bị chán nản và trở nên sợ hãi việc thực hành để rồi quyết định cố thủ trong mớ lý thuyết do người khác tạo ra hoặc bản thân tự tạo nên. Trong khi đó, chân lý thì thường giản đơn, dù phải trả giá bằng chút phiêu lưu mạo hiểm.
Vậy những chân lý được khái quát lại thành định luật mà tác giả John Milton Gregory đã đúc kết được trong sự nghiệp giáo dục là gì? Đó chính là:
1 .Định luật về Giảng dạy 2.Định luật về Giáo viên 3.Định luật về Học viên 4. Định luật về Ngôn ngữ 5. Định luật về Bài học6. Định luật về Quy trình Giảng dạy7. Định luật về Quy trình Học tập8.Định luật về Ôn tập và áp dụng (hóa ra là 8 định luật nhưng tôi thấy bìa sách ghi 7- có lẽ đây là một trò đùa hài hước hoặc một món quà bất ngờ theo kiểu mua 7 tặng 1 dành cho độc giả).
Sách dày 143, rất ngắn gọn nhưng không vì thế mà sơ sài. Tôi thấy cách hành văn của tác giả khá trang trọng, đôi chỗ không chỉ bản về giáo dục mà còn liên tưởng đến những phạm trù mang tính triết học về con người (hoặc cũng có thể tôi nhầm, muốn biết tôi nhầm hay không thì bạn có thể đọc sách để tự kiểm chứng).
Điểm tôi thích nhất ở cuốn sách này là sự gọn nhẹ. Như đã chia sẻ ở trên, bạn không thể mang tất cả lý thuyết vào trong việc thực hành cũng giống nhưng một người lính không thể mang hết tất cả các loại vũ khí ra chiến trường được. Bởi sự cồng kềnh, nặng nề sẽ bào mòn thể lực của anh ta và biến anh ta thành một mục tiêu lý tưởng cho các cuộc tập kích- khi bị tập kích, anh ta có thể chết trong lúc suy nghĩ xem nên sử dụng vũ khí nào mà không thực sự có cơ hội dùng chúng.
Cá nhân tôi chưa thể khẳng định đây là một tác phẩm kinh điển, nhưng nếu được viết ra bởi trải nghiệm thực của tác giả, được ứng dụng rộng rãi cho đến ngày nay, thì gọi bằng cái tên nào cũng khó có thể phủ nhận tính đúng đắn và sự hữu ích mà “7 Định luật giảng dạy” mang lại.
Tôi xin được chia sẻ những ấn tượng của tôi về các định luật này. Nhưng nếu có thời gian và đang theo nghiệp giáo dục, thì bạn nên sắp xếp thời gian để đọc sách.
Định luật về Giảng dạy
Nếu đọc phần mở đầu, bạn sẽ nhận ra đây là cánh cửa dẫn tới 7 định luật giảng dạy. Có thể xem đây là tổng thể những điều tác giả ngộ ra: việc giảng dạy cần tuân theo các định luật nếu muốn mang tới hiệu quả (xin bạn đọc lưu ý định luật và lý thuyết không giống nhau). Định luật không gò bó người tuân theo nó, mà thường thử thách và ban thưởng xứng đáng. Thậm chí nếu biết vận dụng các định luật, thì người giảng dạy có thể tiếp cận với một sự tự do lớn lao trong tư duy và phương pháp (nhưng nhìn bề ngoài có thể giống như họ không theo tư duy và phương pháp nào)- sự khác biệt giữa không biết gì và không gì là không biết đôi khi khá mong manh, mà có lẽ chỉ những con người từng trải mới hiểu được.
Những định luật ấy được tóm tắt như sau:

Giáo viên phải là người biết bài học hay chân lý, hay nghệ thuật cần được dạy.

Học viên là người tham dự với sự quan tâm đến bài học.

Ngôn ngữ được sử dụng giữa giáo viên và học viên phải thông dụng đối với cả hai.

Bài học phải có thể giảng giải được trong giới hạn của chân lý đã được học viên biết- những điều không biết phải được giải thích bằng những phương tiện của những điều đã biết.

Việc giảng dạy là khơi dậy và sử dụng tâm trí của học viên để nắm được ý niệm muốn biết hoặc để thấu hiểu nghệ thuật muốn được học.

Học là suy nghĩ một ý tưởng hay chân lý mới mẻ bằng sự hiểu biết riêng của một người, hoặc làm theo một nghệ thuật hay kĩ năng mới bằng thói quen của họ.

Việc kiểm tra và chứng thực của công tác giảng dạy được thực hiện – quy trình hoàn tất và kết luận – phải là ôn lại, tư duy lại, tái nhận biết, tái hiện, đồng thời áp dụng những tư liệu, những kiến thức đã được dạy cùng những ý tưởng và nghệ thuật đã được truyền đạt.
(Trang 8, 9)
Tự nghiệm về định luật
Soi chiếu những định luật này vào hoạt động giảng dạy thực tế của bản thân, tôi thu nhận thêm được những kinh nghiệm khá hữu dụng.
Ở định luật số 1, hầu hết giáo viên (bao gồm cả tôi) đôi lúc nghĩ rằng mình hiểu kiến thức đang truyền đạt. Nhưng sự thực là không phải lúc nào cũng vậy: chúng ta ghi nhớ kiến thức nhưng chưa chắc đã hiểu kiến thức. Nếu hiểu kiến thức thì người giáo viên sẽ thường xuyên khuyến khích học viên của mình đặt câu hỏi để đào sâu bản chất vấn đề. Còn nếu chỉ nhớ thì người giáo viên sẽ thích dạy theo giáo án, ngăn nắp, suôn sẻ và càng ít câu hỏi càng tốt. Cá nhân tôi nghĩ rằng trong tình huống này nên bổ sung thêm “Định luật can đảm trả lời: thầy/cô không biết”. Nếu giáo viên không biết điều gì đó thì nên vui vẻ thừa nhận với học sinh rồi cùng nhau tìm hướng học tập thay vì dùng quyền uy lấn át các em.
Ngày nay, với chiếc điện thoại thông minh, học sinh hoàn toàn có thể biết nhiều hơn và có khả năng kiểm chứng câu trả lời của giáo viên chỉ với vài thao tác đơn giản. Nhưng các em cần ai đó thực sự hiểu và biết cách diễn giải, vận dụng những thông tin ấy vào đời sống. Đó là lý do tại sao các em cần giáo viên thành thực thay vì giáo viên “biết tuốt” hay giáo viên AI (Trí tuệ nhân tạo).
Định luật số 2 là nan đề của giáo dục hiện đại. Vì không phải bạn học sinh nào cũng thích đến trường và có thể duy trì sự tập trung, hứng thú với việc học lên đến 8 tiếng một ngày. Ngoài ra, năng lực tập trung của các em đã bị thoái hóa đáng kể trong thời đại số với những màn giải trí hấp dẫn, lãng xẹt với các nội dung ngắn (khoảng 30 giây đến 90 giây) trên các thiết bị công nghệ. Giữ cho học sinh tập trung là điều không hề dễ dàng. Nếu thương các giáo viên và con em của mình, thì cha mẹ nên hạn chế việc sử dụng công nghệ của con em. Vì lạm dụng công nghệ sẽ khiến một số chức năng của não bộ bị tiêu giảm, đặc biệt là khả năng tập trung và tư duy sâu. Nếu bộ não trục trặc, việc học của con người sẽ đình trệ.
Định luật số 3 và số 4 là điều đôi tôi thấy còn vướng mắc. Tôi thường trò chuyện với các em học sinh của mình như người lớn. Mục đích của tôi khi làm vậy là bày tỏ sự tôn trọng các em và có thể trao đổi với các em những điều mà các em nên biết trước khi trở thành người lớn (dĩ nhiên phong cách này sẽ đối lập với tư duy “nó còn bé thì biết gì?”). Điều khó khăn ở đây là đôi lúc chúng tôi sẽ đến những lĩnh vực hơi xa xôi so với đời sống trước mắt của các em.
Ví dụ như trong đầu một bạn học sinh đang nghĩ đến việc đi lượn phố, sốt ruột đợi cú điện thoại giao hàng từ shipper hay muốn mua một thứ gì đó không quan tâm đến giá cả (vì bạn không phải người trả giá) thì tôi lại nói với bạn về mục tiêu sống, ý thức cho – nhận và sự độc lập, thói quen quản lý tiền bạc. Do đó, tôi vẫn đang trên hành trình cố gắng sàng lọc ngôn ngữ sao cho thật đơn giản, dễ hiểu, liên hệ những điều các em chưa biết với điều đã biết để chuyện trò cùng các em
Định luật số 5 và 6 thì tôi đã tự giác tuân theo kể từ trước khi biết đến chúng. Bản năng này có lẽ đã được các thầy cô giáo yêu nghề tôi từng theo học, các cuốn sách tôi từng đọc từ các tác giả bậc thầy truyền lại như: Frank McCourt, Rousseau, John Dewey, Howard Gardner, Rudolf Steiner, Fukuzawa Yukichi, Kimura Kyuichi, Quỷ Cốc Tử, Khổng Tử, Lão Tử, Krishnamurti, Osho, Carl Rogers, Randy Pausch, Peter Filene, Thomas Gordon, Rafe Esquith, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Đạo Thúy, Thái Phỉ Nguyễn Đức Phong, Nguyên Phong, Alan Phan, Phan Văn Trường, Giản Tư Trung, Lê Nguyên Phương. Xin lưu ý, tôi liệt kê tên các vị không phải để khoe khoang mình đọc nhiều, mà để độc giả quan tâm đến giáo dục mà chưa biết nên tìm đọc sách của tác giả nào thì có thể tham khảo.
Tôi đánh giá cao sự khác biệt, độc đáo của mỗi cá thể. Vậy nên tôi đi theo định hướng giáo dục cá nhân hóa- hình thức giáo dục mà tôi tin là giáo dục đúng nghĩa và không áp đặt, ràng buộc bởi thi cử rồi thi cử xong thì lại bị ràng buộc bởi thành tích, gây ra cảm giác đơn điệu, nhàm chán cho cả người dạy lẫn người học.
Tôi cũng hoàn toàn tán đồng với định luật số 7. “Văn ôn võ luyện” là điều tôi vẫn thường áp dụng trước hết là đối với chính mình (nếu được bổ sung, tôi sẽ lại thêm “Định luật nêu gương” vào nữa). Nếu muốn giáo dục thì bản thân người làm giáo dục cần nhận được sự tin cậy, mến phục của người được giáo dục. Nếu bản thân người giảng dạy không thực hành, củng cố thường xuyên thì khó có thể trách học trò học tập hời hợt, thiếu ý thức tự giác. Với tôi, trong bộ ba “Chân – Thiện – Mỹ” thì cái Chân (thực) luôn là điều đầu tiên mà các nhà giáo nên lưu tâm.


Thay cho lời kết

“7 Định luật giảng dạy” là một hành trình thú vị với tôi. Ngôn ngữ sách khá cô đọng, dung lượng ngắn nhưng không vì thế tôi đánh giá đây là một cuốn sách dễ đọc. Có những chỗ tôi chưa hiểu hết nên tôi sẽ cần đọc lại để hiểu rõ hơn. Tôi viết review sách trước hết là cho chính mình, nên sẽ chưa mang lại đầy đủ thông tin như bạn đọc kỳ vọng. Dù vậy, nếu bạn đã đọc đến đây thì tôi vui vì bạn đã dành thời gian chia sẻ cùng tôi những cảm nhận về sách.
Ngoài giáo viên, các nhà đào tạo thì tôi tin đọc cuốn sách này cũng sẽ mang lại rất nhiều lợi lạc cho các bậc cha mẹ trên hành trình giáo dục con. Nuôi con là bản năng, nhưng nếu dạy con theo bản năng thì rất có thể nhiều bậc cha mẹ sẽ tiếc nuối. Vì cảm giác nuôi người lâu nhưng thực tế đứa trẻ lại lớn rất nhanh: cô bé, cậu bé ngây thơ, đáng yêu được chiều chuộng rất có thể trở nên hỗn láo, ích kỷ từ lúc nào cha mẹ không biết. “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” là lời dặn dò sáng suốt của Bác Hồ mà tôi xin được nhắc lại.
Trong giáo dục, tôi tin giữa lý thuyết và thực hành cần có sự tương hỗ lẫn nhau. Với một số người thì lý thuyết sẽ mở đường cho thực hành và một vài người còn lại thì thực hành rồi mới tìm hiểu lý thuyết. Không có gì là sai trái ở đây nếu hành động đó mang lại kết quả chung cuộc tốt đẹp: cha mẹ - con cái, giáo viên – học sinh hài lòng, hạnh phúc.

Nguyenphuhoang Nam