Sunday, December 29, 2024

[Đọc] "Điều kỳ diệu của tiệm tạp hoá Namiya" - Cuốn sách có điều kỳ diệu
Đừng dừng lại cho đến khi đọc hết trang cuối cùng, vì có thể bạn sẽ bỏ lỡ điều kỳ diệu nào đó dành cho mình.
• Tác giả: Higashino Keigo
• Thể loại: Tiểu thuyết
• Số trang: 358
• Phát hành bởi Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty VH&TT Nhã Nam (2017)

(Source ảnh: sachnhanam.com)

Văn học phản ánh hiện thực

Đây là cuốn sách đã làm tôi nổi gai ốc nhiều lần, đặc biệt là ở 1/4 cuối cùng, khi mà tôi đã ngỡ sẽ chẳng còn bí mật nào nữa. Nếu bạn yêu thích những câu chuyện có tình tiết thì nhất định không thể bỏ qua tác phẩm này. Theo như giới thiệu về tác giả, ông là một nhà văn trinh thám hàng đầu của Nhật. Và mặc dù đây không phải tiểu thuyết trinh thám, tôi vẫn kinh ngạc trước sự tài tình của ông trong việc xâu chuỗi mọi tình tiết một cách nhẹ nhàng, khéo léo, và quan trọng là, hợp lý.
Cuốn sách sẽ đưa bạn đi qua nhiều cột mốc quan trọng trong lịch sử Nhật Bản hiện đại, nhưng là bằng những câu chuyện sống động chứ không phải những con số ngày tháng năm, và bạn có thể xâu chuỗi chúng lại theo thứ tự thời gian nếu thích, như tôi sắp làm, hoặc không. Vì nó sẽ chẳng ảnh hưởng đến những điều kỳ diệu mà tiệm Namiya đã trao gửi.
Nếu tính từ sự kiện đầu tiên đến sự kiện cuối cùng diễn ra trong sách, có lẽ tương đương với khoảng thời gian của 4 đến 5 thế hệ, trong đó tập trung nhất là từ nửa cuối thế kỷ XX đến hơn mười năm đầu của thế kỷ XXI, thời kỳ Nhật Bản có nhiều biến động kinh tế - chính trị - xã hội. Những con người ở những thời gian và không gian khác nhau, tưởng chừng không chút liên quan, lại trở thành những mảnh ghép vừa khít cho một bức tranh nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai.
Khủng hoảng dầu mỏ 1973, cơn sốt bất động sản và chứng khoán tại Nhật 1986 - 1989, cách mạng công nghiệp lần ba với sự ra đời và phát triển vũ bão của máy tính cá nhân, điện thoại di động và internet (Đây có lẽ là cột mốc gần với chúng ta nhất). Kèm theo đó là những sự kiện đáng nhớ khác như Olympic Moscow 1980, cùng năm đó John Lennon bị ám sát, hoặc ngược dòng thời gian một chút cho những ai là fan của The Beatles tại Nhật, đó là năm 1966 khi nhóm đến Nhật lưu diễn trong đỉnh điểm của cơn sốt The Beatles toàn thế giới, chỉ vài năm trước khi The Beatles chính thức tan rã.
Điều kỳ diệu là do được ban tặng hay tự mình làm nên?
Tất cả những sự kiện gây chấn động nói trên đều làm nền cho những con người sinh ra trong giai đoạn này và ghi lại dấu ấn trong cuộc đời của không chỉ họ mà còn nhiều người khác. Và điểm chung của tất cả, đó là có cùng mối dây kết nối với tiệm tạp hoá Namiya.

Thật khó để nói ai là nhân vật chính của tiểu thuyết này.

Đó có thể là chủ tiệm Namiya Yuji, người đã khởi nguồn và kết nối tất cả. Ông không chỉ khởi nguồn tiệm tạp hoá Namiya mà cũng là người khởi nguồn cho một tình yêu bất diệt. Tại sao lại nói nó bất diệt? Vì đến khi nào vẫn còn những đứa trẻ cơ nhỡ cần nơi nương tựa, đến khi nào Trại trẻ Marumitsu vẫn còn tồn tại, thì tình yêu đó vẫn còn xanh tươi. Không phải chỉ khi hai người yêu nhau, đến với nhau và sinh con đẻ cái, tình yêu đó mới đâm chồi nảy lộc. Đây chính là một trong những điểm nhân văn nhất mà tiểu thuyết này khiến tôi xúc động.
Nhân vật chính cũng có thể là 3 "kẻ lạc lối" Atsuya, Shota và Kouhei, người đã viết tiếp câu chuyện về tiệm tạp hoá kỳ lạ, hay nói cách khác, là người kế thừa của Namiya Yuji dù chẳng phải hậu duệ của ông. Thế nhưng, trái ngược với ông chủ tiệm tạp hoá được nhiều người yêu mến và ngưỡng mộ kia, chính 3 con người bên lề xã hội này đã gián tiếp giúp ông tạo nên một cái kết đẹp cho câu chuyện từng làm ông trăn trở thật nhiều.
Cũng không thể nói những nhân vật như Waku Kousuke - người đầu tiên gửi một câu hỏi nghiêm túc đến tiệm Namiya, Muto Harumi - người rất có thể sẽ là nhân vật kế thừa Trại trẻ Marumitsu trong tương lai, hay Minaduki Akiko - nhân vật chưa một lần thật sự xuất hiện trong tác phẩm, là những nhân vật phụ. Và chắc chắn những ai đã đọc tác phẩm này cũng sẽ không quên "nhạc sỹ hàng cá" Matsuoka Katsuro, người đã điểm một nét kết nối tuyệt đẹp giữa chuỗi câu chuyện của chủ tiệm và 3 kẻ lạc lối.
Mỗi nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết này đều là một mắt xích mà chỉ cần thiếu đi một, câu chuyện đều sẽ trở nên lỏng lẻo, thậm chí vô nghĩa.

Cũng thật khó để nói "điều kỳ diệu" được nhắc đến ở đây là gì.

Đó có thể là điều kỳ diệu về căn nhà nơi thời gian ngừng lại, nơi nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai.
Đó có thể là sự đáp đền tiếp nối, khi những con người được giúp đỡ lại tiếp tục đi giúp đỡ những người khác, dù chỉ là vô tình.
Đó cũng có thể là tình huống mà Atsuya, Shota và Kouhei đã gián tiếp cứu lấy Trại trẻ Marumitsu.
Đó cũng có thể là việc ông Namiya Yuji không hề biết đến sự tồn tại của Trại trẻ Marumitsu cho đến cuối đời trong khi đây là nơi có quan hệ mật thiết với ông cũng như với những người ông từng tư vấn. Đến đây đột nhiên tôi nhớ đến câu "Đằng sau thành công của người đàn ông là bóng dáng một người phụ nữ", đằng sau những điều kỳ diệu của tiệm Namiya còn có một Trại trẻ mồ côi tên là Marumitsu.
Những người đến tìm sự tư vấn của tiệm Namiya và nghe theo lời chia sẻ của tiệm, không phải ai cũng có kết thúc tốt đẹp cho cuộc đời mình, nhưng họ đều đã hạnh phúc vì nguyện vọng thành sự thật, dù là sau khi họ chết đi. Đây có lẽ cũng là một điều kỳ diệu.
Còn với câu hỏi "Điều kỳ diệu là do được ban tặng hay tự mình làm nên?", xin được để bạn tự tìm câu trả lời sau khi đọc tác phẩm này.
Tôi chỉ xin trích dẫn lại một đoạn tôi khá tâm đắc, mặc dù đọc qua thì nó rất bình thường nhưng nếu bạn đọc tác phẩm, tôi tin bạn sẽ hiểu điều gì làm tôi tâm đắc.
Thế nhưng...
Nhóm Beatles trên màn hình hơi khác với nhóm Beatles trong ký ức của Kousuke. Lúc xem ở rạp, anh có cảm giác trái tim họ mỗi người một nơi, việc biểu diễn cũng rời rạc. Nhưng ấn tượng lúc này lại hoàn toàn khác.
Cả bốn thành viên đều biểu diễn rất hăng say. Thậm chí trông họ còn rất vui vẻ. Phải chăng, dù sắp giải tán nhưng khi cả bốn người được biểu diễn cùng nhau, cảm xúc của họ lại trở về như ngày xưa?
Có lẽ nguyên nhân khiến Kousuke cảm thấy buổi biểu diễn đó thật tồi tệ khi xem ở rạp nằm ở cảm xúc của anh. Anh khi ấy đã không còn tin vào sự gắn kết của trái tim nữa.

Kết

Ngoài những điểm đã nói ở trên, tác phẩm này cũng có những chi tiết nhỏ tinh tế. Ví dụ như "lời hứa giữa những người đàn ông", dù là chi tiết xuất hiện rải rác nhưng lần nào cũng làm tôi chú ý. Hoặc chi tiết về con chó khắc gỗ mà Kousuke đã tặng cho Harumi và chữ ký "Chó nhỏ lạc lối". Còn "chi tiết nhỏ tinh tế" nào khác, mong sẽ được những bạn đã đọc tác phẩm cùng chia sẻ.
Và, nếu bạn muốn tìm nhạc nền để nghe trong khi đọc sách, tôi xin được gợi ý nhạc Ghibli.
Đọc sách có làm cho người ta có khí chất khác đi hay không, tôi không biết. Nhưng tôi biết đọc những cuốn sách hay sẽ mở rộng góc nhìn, khai phá suy nghĩ, trải nghiệm những cảm xúc khác với cuộc sống hàng ngày. Đó là lý do có câu nói đại ý rằng người đọc sách có nhiều hơn một cuộc đời. Với tôi, "Điều kỳ diệu của tiệm tạp hoá Namiya" là một trong những cuốn sách hay như thế.

Wednesday, December 18, 2024

Xác suất có thật sự tồn tại?
Bài dịch từ "Does probability exist?", David Spiegelhalter, Nature 636, 560-563 (2024)
Illustration: Sébastien Thibault
Cuộc đời đầy những bất định. Không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra. Con người biết rất ít về quá khứ và cả hiện tại bên ngoài trải nghiệm trực tiếp của bản thân. Sự không chắc chắn có thể về thời tiết ngày mai, nhà vô địch Premier League mùa giải kế tiếp, khí hậu năm 2100 hoặc danh tính của tổ tiên xa xưa.

Trong cuộc sống hằng ngày, sự không chắc chắn thường được diễn đạt bằng lời nói, trong Anh ngữ có các từ như “could”, “might” hoặc “is likely to”. Nhưng những từ ngữ diễn tả sự không chắc chắn có thể bị hiểu sai và dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng. Năm 1961, tổng thống Hoa Kì mới đắc cử John F.Kennedy được thông báo về một kế hoạch do CIA tài trợ nhằm tấn công Cuba. Ông yêu cầu các quan chức quân đội cấp cao đưa ra đánh giá. Họ đã kết luận rằng nhiệm vụ có 30% khả năng thành công – tức là, có 70% thất bại. Tuy nhiên, trong báo cáo gửi đến tổng thống, điều này được diễn giải thành “một cơ hội công bằng” (a fair chance). Sự kiện xâm lược Vịnh Con Lợn đã diễn ra và trở thành một thảm họa. Hiện nay đã có các thang đo được thiết lập để chuyển đổi các từ ngữ không chắc chắn thành các con số gần đúng. Ví dụ, bất kỳ ai trong cộng đồng tình báo Anh sử dụng thuật ngữ “likely” đều nên hiểu rằng khả năng xảy ra nằm trong khoảng từ 55% - 75%.
Nguồn: https://www.gov.uk/government/news/defence-intelligence-communicating-probability
Những nỗ lực diễn đạt sự may rủi và sự không chắc chắn thành những con số dẫn đến toán học xác suất, mà ngày nay được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu. Ví dụ, bất kì tạp chí khoa học nào cũng dễ dàng tìm thấy các giá trị P (P-value), khoảng tin cậy (confidence interval) và phân phối hậu nghiệm Bayes (Bayesian posterior distributions), tất cả đều phụ thuộc vào xác suất.
Tuy nhiên, bất kì con số xác suất nào dù trong một bài báo khoa học, đều không phải là một thuộc tính khách quan (objective property) của thế giới, mà là một cấu trúc (construction) dựa trên các phán đoán (judgement) cá nhân hoặc tập thể cùng với các giả định (assumption). Hơn nữa, trong hầu hết các trường hợp, xác suất không ước tính một con số thật (true). Xác suất hiếm khi được cho là thật sự tồn tại.

1. Xác suất – kẻ đến sau

Xác suất đến sau toán học. Mãi đến khi các nhà toán học người Pháp Blaise Pascal và Pierre de Fermat bắt đầu trao đổi thư từ vào những năm 1650 thì mới có những phân tích nghiêm ngặt về các sự kiện ngẫu nhiên. Giống như việc xả nước từ một con đập bị dồn nén, xác suất từ đó tràn ngập các lĩnh như tài chính, thiên văn học, luật pháp, và cả cờ bạc.
Để hiểu được bản chất khó nắm bắt của khái niệm xác suất, hãy xem xét cách khái niệm này được sử dụng trong dự báo thời tiết ngày nay. Các nhà khí tượng học đưa ra dự đoán về nhiệt độ, tốc độ gió, lượng mưa, và thường là với con số phần trăm xác suất chẳng hạn như 70% cho một thời điểm và địa điểm nhất định. Nhiệt độ, tốc độ gió, lượng mưa có thể được so sánh với các giá trị thực của chúng; vì có thể đo lường giá trị thực vào một thời điểm trong tương lai để so sánh với giá trị dự báo. Thế nhưng, không tồn tại một giá trị xác suất thực để so sánh với đánh giá của người dự báo. Không có cái gọi là đồng hồ đo xác suất (probability-ometer). Hoặc là mưa, hoặc là không mưa.
Hơn nữa, như triết gia Ian Hacking nhấn mạnh, xác suất bao gồm cả sự ngẫu nhiên (chance) và sự thiếu hiểu biết (ignorance). Hãy tưởng tượng tôi tung một đồng xu và hỏi bạn về xác suất xuất hiện mặt ngửa, bạn vui vẻ trả lời “50-50”. Bây giờ, tôi tung đồng xu, liếc nhìn kết quả, vậy xác suất xuất hiện mặt ngửa của bạn là bao nhiêu? Lưu ý rằng, tôi nói xác suất của bạn, không phải xác suất. Hầu hết mọi người tỏ ra ngần ngại với câu trả lời "50-50" của mình. Nhưng sự kiện đã xảy ra, tôi đã nhìn thấy kết quả và không còn sự ngẫu nhiên nào nữa - chỉ còn sự thiếu hiểu biết của bạn. Tính huống đã chuyển từ “sự không chắc chắn ngẫu nhiên” (‘aleatory’ uncertainty) về tương lai mà chúng ta không thể biết sang “sự không chắc chắn nhận thức” (‘epistemic’ uncertainty) về hiện tại mà chúng ta không được biết. Xác suất được sử dụng cho cả 2 tình huống này.
Còn có một bài học khác ở đây. Ngay cả khi có một mô hình thống kê về những gì nên xảy ra, thì điều này luôn dựa trên các giả định chủ quan (subjective assumption) – trong trường hợp tung đồng xu, rằng có hai kết quả có khả năng xảy ra ngang nhau. Điều này có thể bị khẳng định một cách vội vàng, hấp tấp.

2. Chủ quan và khoa học

Lập luận của tôi là bất kỳ ứng dụng thực tế nào của xác suất đều liên quan đến các phán đoán chủ quan (subjective judgement). Điều này không có nghĩa là tôi có thể đưa ra bất kỳ con số nào - tôi sẽ bị chứng minh là một người đánh giá xác suất kém nếu tuyên bố với độ chắc chắn 99,9% rằng mình có thể bay khi nhảy từ mái nhà. Thế giới khách quan (objective world) xuất hiện khi xác suất và các giả định cơ bản của chúng được kiểm định với thực tế; nhưng điều đó không có nghĩa rằng bản thân xác suất là khách quan.
Một số giả định được sử dụng để đánh giá xác suất sẽ có lý lẽ biện minh mạnh mẽ hơn những giả định khác. Nếu tôi đã xem xét kỹ lưỡng một đồng xu trước khi tung nó lên, nó rơi xuống một bề mặt cứng và nảy lên một cách hỗn loạn, tôi sẽ cảm thấy phán đoán 50-50 của mình là hợp lý hơn so với việc để một nhân vật mờ ám nào đó sử dụng một đồng xu được chuẩn bị từ trước. Những hạn chế tương tự này áp dụng ở bất kỳ nơi nào sử dụng xác suất – bao gồm cả trong bối cảnh khoa học.
Đây là một ví dụ về tầm quan trọng thực sự của khoa học. Ngay sau khi đại dịch COVID-19 bắt đầu, các thử nghiệm phục hồi (RECOVERY trial) đã bắt đầu thử nghiệm các liệu pháp trên những người nhập viện vì COVID-19 tại Vương quốc Anh. Trong một thí nghiệm, hơn 6.000 người được phân phối ngẫu nhiên vào 2 nhóm; nhóm 1 nhận được sự chăm sóc tiêu chuẩn được cung cấp tại bệnh viện nơi họ đang được điều trị; nhóm 2 nhận được sự chăm sóc như nhóm 1 và cộng thêm một liều dexamethasone, một loại steroid giá rẻ. Nguy cơ tử vong hàng ngày đã điều chỉnh theo độ tuổi thấp hơn 29% trong nhóm được phân bổ dexamethasone so với nhóm chỉ được chăm sóc tiêu chuẩn (khoảng tin cậy 95% là 19–49%). P-value, nghĩa là xác suất được tính toán để quan sát một rủi ro tương đối cực đoan như vậy khi chấp nhận giả thuyết vô hiệu (null hypothesis) – tức là giả thuyết không có sự khác biệt giữa 2 nhóm, được tính toán là 0.01%.
Đây là tất cả các phân tích chuẩn. Nhưng độ tin cậy và P-value phụ thuộc vào nhiều thứ hơn việc giả định giả thuyết vô hiệu là đúng. Nó cũng phụ thuộc vào tất cả các giả định trong mô hình thống kê, chẳng hạn như các quan sát là độc lập: rằng không có yếu tố nào khiến những người được điều trị trong những không gian và thời gian tương đồng có kết quả giống nhau hơn. Nhưng có nhiều yếu tố như vậy, cho dù đó là bệnh viện nơi mọi người đang được điều trị hay chế độ chăm sóc thay đổi. Giá trị chính xác cũng phụ thuộc vào tất cả những người tham gia trong mỗi nhóm có cùng xác suất sống sót cơ bản sau 28 ngày. Điều này sẽ khác nhau vì đủ mọi lý do.
Những giả định vội vàng đó không nhất thiết dẫn đến một kết quả phân tích sai. Trong trường hợp này, tín hiệu (signal) quá mạnh đến mức một mô hình cho phép, chẳng hạn, rủi ro cơ bản thay đổi giữa những người tham gia sẽ không tạo ra nhiều khác biệt đối với kết luận chung. Tuy nhiên, nếu kết quả có biên độ lớn hơn (more marginal), thì việc phân tích mở rộng về độ nhạy (sensitivity) của mô hình đối với các giả định thay thế là phù hợp.
"Tất cả các mô hình đều sai, nhưng một số thì hữu ích" (George Box). Phân tích dexamethasone đặc biệt hữu ích vì kết luận chắc chắn của nó đã thay đổi hoạt động lâm sàng và cứu sống hàng trăm nghìn người. Nhưng các xác suất mà kết luận dựa trên không “thật” (true) - chúng là sản phẩm của các giả định và phán đoán chủ quan nhưng hợp lý.

3. Xác suất – chủ quan và khách quan

Nhưng liệu những con số xác suất này có phải là các ước tính chủ quan, hay là một đặc điểm khách quan của thế giới?
Xin lưu ý rằng tôi không nói về thế giới lượng tử. Ở cấp độ dưới nguyên tử, toán học chỉ ra rằng các sự kiện không có nguyên nhân có thể xảy ra với xác suất cố định (mặc dù ít nhất một cách giải thích nêu rằng ngay cả những xác suất đó cũng thể hiện mối quan hệ với các vật thể hoặc người quan sát khác, thay vì là các đặc tính nội tại của các vật thể lượng tử). Nhưng có vẻ như điều này có ảnh hưởng không đáng kể đến các sự kiện được quan sát hàng ngày trong thế giới vĩ mô.
Tôi cũng tránh những lập luận hàng thế kỷ về việc liệu thế giới, ở cấp độ phi lượng tử, có phải là tất định hay không và liệu chúng ta có ý chí tự do để tác động đến diễn biến của các sự kiện. Bất kể câu trả lời là gì, chúng ta vẫn cần phải xác định xác suất khách quan thực sự là gì.
Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để làm điều này trong nhiều năm, nhưng đều có những hạn chế. Những nỗ lực này bao gồm xác suất tần suất (frequentist probability), một phương pháp xác định tỷ lệ các sự kiện sẽ được nhìn thấy trong vô số lần lặp lại của các tình huống giống hệt nhau – ví dụ, lặp lại cùng một thử nghiệm lâm sàng trong cùng một quần thể với cùng các điều kiện nhiều lần. Điều này có vẻ khá phi thực tế. Nhà thống kê Ronald Fisher đã đề xuất việc nghĩ về một tập dữ liệu duy nhất như một mẫu từ một quần thể giả định vô hạn (hypothetical infinite population), nhưng điều này có vẻ giống một thí nghiệm tư duy hơn là một thực tế khách quan. Hoặc có ý tưởng mang tính bán huyền bí rằng tồn tại một khuynh hướng thực sự tiềm ẩn đối với một sự kiện cụ thể xảy ra trong một bối cảnh nhất định, chẳng hạn như tôi sẽ bị đau tim trong vòng mười năm tới. Điều này có vẻ như không thể xác minh được.
Có một phạm vi hạn chế các tình huống được kiểm soát tốt, có thể lặp lại với độ phức tạp vô cùng lớn đến mức, ngay cả khi chúng về cơ bản là xác định, vẫn phù hợp với mô hình tần suất (frequentist paradigm) bằng cách có phân phối xác suất với các thuộc tính có thể dự đoán được trong thời gian dài. Chúng bao gồm các thiết bị ngẫu nhiên hóa tiêu chuẩn (standard randomizing devices), chẳng hạn như vòng quay roulette, xào bài, tung đồng xu, ném xúc xắc và quả bóng xổ số, cũng như các máy tạo số giả ngẫu nhiên (seudo-random number generators), dựa trên các thuật toán hỗn loạn, phi tuyến tính để đưa ra các con số vượt qua các bài kiểm tra về tính ngẫu nhiên.
Trong thế giới tự nhiên, chúng ta có chuyển động của tập hợp các phân tử khí, ngay cả khi tuân theo vật lý Newton, vẫn phù hợp với các quy luật thống kê; và di truyền học, trong đó sự phức tạp của quá trình chọn lọc và tái tổ hợp nhiễm sắc thể tạo ra tỷ lệ di truyền ổn định. Trong những trường hợp hạn chế này, có thể hợp lý khi giả định một xác suất giả khách quan (a pseudo-objective probability), thay vì một xác suất chủ quan (subjective probability).
Tuy nhiên, trong mọi tình huống khác mà xác suất được sử dụng – từ các lĩnh vực rộng lớn của khoa học đến thể thao, kinh tế, thời tiết, khí hậu, phân tích rủi ro, mô hình thảm họa,... – thì việc coi phán đoán của chúng ta là ước tính về xác suất “thực” là không hợp lý. Đây chỉ là những tình huống chúng ta cố gắng biểu đạt sự không chắc chắn dưới dạng xác suất, dựa trên kiến thức và phán đoán của bản thân.

4. Vấn đề của phán đoán

Tất cả những điều này chỉ làm nảy sinh thêm nhiều câu hỏi. Làm thế nào để chúng ta định nghĩa xác suất chủ quan? Và tại sao các quy luật xác suất lại hợp lý, nếu chúng dựa trên những thứ mà về cơ bản do chúng ta tạo nên? Điều này đã được thảo luận trong các tài liệu học thuật trong gần một thế kỷ, một lần nữa không có kết quả nào được thống nhất.
Một trong những nỗ lực đầu tiên được thực hiện vào năm 1926 bởi nhà toán học Frank Ramsey tại Đại học Cambridge, Vương quốc Anh. Ramsey đã chứng minh rằng tất cả các quy luật xác suất (laws of probability) có thể được bắt nguồn từ sở thích đối với những trò cá cược. Các kết quả được gán giá trị lợi ích (utility), và việc đánh cược được tóm lại bởi giá trị lợi ích kỳ vọng (expected utility), vốn được xác định bởi các con số mang tính chủ quan biểu thị phần nào niềm tin – tức là các xác suất cá nhân của chúng ta. Tuy nhiên, cách diễn giải này đòi hỏi phải chỉ định các giá trị lợi ích cụ thể. Gần đây hơn, người ta đã chứng minh rằng các quy luật xác suất có thể được suy ra đơn giản bằng cách hành động nhằm tối đa hóa hiệu suất kỳ vọng khi sử dụng một quy tắc chấm điểm phù hợp, chẳng hạn như quy tắc được trình bày trong hộp văn bản “Tôi mù mờ đến mức nào?” (How ignorant am I?) bên dưới đây:

Những nỗ lực định nghĩa xác suất thường khá mơ hồ. Ví dụ, trong bài báo năm 1941-2 “The Applications of Probability to Cryptography”, Alan Turing sử dụng định nghĩa “Xác suất của một sự kiện trên một số bằng chứng nhất định là tỷ lệ các trường hợp mà sự kiện đó có thể được mong đợi xảy ra dựa trên bằng chứng đó”. Điều này thừa nhận rằng xác suất thực tế dựa trên kỳ vọng – phán đoán của con người. Nhưng khi nói đến “các trường hợp”, Turing hàm ý rằng các trường hợp của cùng quan sát hay của cùng phán đoán?
Cái sau có điểm chung với định nghĩa của chủ nghĩa tần suất về xác suất khách quan, chỉ khác là lớp các quan sát tương tự lặp lại được thay thế bằng lớp các phán đoán chủ quan tương tự lặp lại. Theo quan điểm này, nếu khả năng mưa được đánh giá là 70%, điều này đặt nó vào tập hợp các dịp mà người dự báo gán xác suất 70%. Bản thân sự kiện này được kỳ vọng sẽ xảy ra trong 70% các dịp như vậy. Đây có lẽ là định nghĩa yêu thích của tôi. Nhưng sự mơ hồ của xác suất được chứng minh rõ ràng bởi thực tế là, sau gần bốn thế kỷ, có rất nhiều người sẽ không đồng ý với tôi về điều đó.

5. Cách tiếp cận thực dụng

Khi tôi còn là sinh viên vào những năm 1970, người cố vấn của tôi, nhà thống kê học Adrian Smith, đã dịch “Lý thuyết xác suất” (Theory of Probability) của nhà toán học người Ý Bruno de Finetti. De Finetti đã phát triển các ý tưởng về xác suất chủ quan vào khoảng thời gian tương tự như Ramsey, nhưng hoàn toàn độc lập. Cuốn sách đó bắt đầu bằng tuyên bố khiêu khích: "Xác suất không tồn tại", một ý tưởng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ của tôi trong 50 năm qua.
Tuy nhiên, trên thực tế, có lẽ chúng ta không cần phải quyết định xem liệu xác suất khách quan có thực sự tồn tại trong thế giới phi lượng tử không. Thay vào đó, chúng ta có thể áp dụng cách tiếp cận thực dụng. De Finetti đã đưa ra lập luận thuyết phục nhất cho cách tiếp cận này trong tác phẩm năm 1931 của ông về "Khả năng trao đổi" (exchangeability), dẫn đến một định lý nổi tiếng mang tên ông. Một chuỗi sự kiện được coi là có thể trao đổi (exchangeable) nếu xác suất chủ quan của chúng ta đối với mỗi chuỗi không bị ảnh hưởng bởi thứ tự quan sát của chúng ta. De Finetti đã chứng minh một cách xuất sắc rằng giả định này về mặt toán học tương đương với việc hành động như thể các sự kiện là độc lập, mỗi sự kiện có một xác suất xảy ra và rằng sự không chắc chắn của chúng ta về xác suất chưa biết đó được thể hiện bằng một phân phối xác suất nhận thức chủ quan (a subjective, epistemic probability distribution). Điều này thật đáng chú ý: nó cho thấy rằng, bắt đầu từ một biểu hiện cụ thể nhưng hoàn toàn chủ quan của niềm tin, chúng ta nên hành động như thể các sự kiện được thúc đẩy bởi xác suất khách quan.
Thật phi thường khi một khối lượng công trình quan trọng, làm nền tảng cho toàn bộ khoa học thống kê và nhiều hoạt động khoa học và kinh tế khác, lại nảy sinh từ một ý tưởng khó nắm bắt như vậy. Và vì vậy tôi sẽ kết luận bằng câu cách ngôn của riêng mình:

Xác suất có lẽ không tồn tại - nhưng thường hữu ích khi hành động như thể nó tồn tại.
Probability probably does not exist - but it is often useful to act as if it does.

Sunday, December 15, 2024

[Tập hiểu sâu]: Vì sao Bạn luôn KHÔNG ỔN?
I’m OK - You’re OK, một tựa sách dành cho những ai luôn thấy bản thân Không-Ổn. Đặc biệt, với những ai đã trải qua thời gian tìm kiếm và thử nghiệm các phương pháp cải thiện tâm lý nhưng vẫn thấy mình Không-Ổn.

1- Một quyển sách khó:

Sơ lược về khởi nguồn, những năm 1950 tại Mỹ, Eric Berne - một Tiến sĩ trong lĩnh vực Tâm thần học người Canada đã thất vọng về các kỹ thuật trị liệu tâm lý đang thịnh hành lúc bấy giờ vì nhận ra nó không giúp ích nhiều cho bệnh nhân. Các liệu pháp đó chỉ mô tả được triệu chứng nhưng không giải thích được nguồn gốc “vì sao tôi có chứng rối loạn lo âu này, vì sao tôi có chứng ám ảnh này,...” một cách trực quan, cụ thể. Năm 1957, Eric Berne quyết định phát triển học thuyết của riêng mình, phân tích tương giao (transactional analysis), lời giải đáp cho những câu hỏi “vì sao”. Quyển sách “Games people play” ông viết về học thuyết này đã phát hành thành công vượt bậc trên toàn thế giới. Tuy nhiên, sách vẫn còn nhiều biệt ngữ kỹ thuật, gây trở ngại khó đọc với nhiều người.
I’m OK – You’re OK được chấp bút bởi Tiến sĩ Tâm thần học Thomas Harris, người học trò cùng tuổi của Eric Berne. Thomas Harris đã rất giúp đỡ chúng ta trong việc viết lại học thuyết phân tích tương giao theo “kiểu ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu và ứng dụng được”. Sách xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1969, Top #1 best seller New York Times năm 1972. Đến nay, sách đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng khác nhau, với hơn 15 triệu bản in được phát hành trên khắp các châu lục.


Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, sách được dịch bởi nhóm dịch giả có chuyên môn cao trong ngành Tâm lý Lâm sàng, bản in cuối cùng được hiệu đính bởi Bác sĩ Nguyễn Minh Tiến, một bác sĩ nổi tiếng trong chuyên khoa Tâm thần - Tâm lý tại Việt Nam. Chất lượng được bảo chứng là thế, nhưng đây không phải là một quyển sách nổi tiếng tại thị trường này. Phần vì nội dung khá khó tiếp cận với thị hiếu chung của bạn đọc, phần vì bản thân sách không được PR rầm rộ. Nhưng tôi tin đây là một quyển sách đặc biệt, được dành riêng cho những ai đang thật sự cần đến nó, “người cất công đi tìm đáp án, sẽ tìm được đáp án”.
Bây giờ chúng ta sẽ cùng vào nội dung!

2- Cảm giác “sống lại” và cảm giác “nhớ lại”:

Chắc hẳn bạn từng bất chợt bắt gặp một mùi hương, một âm thanh mang đến cho bản thân sự thoải mái dễ chịu tột cùng. Đó là cảm giác “sống lại” một điều gì đó tốt đẹp trong quá khứ. Giả thuyết khi nhỏ bạn đã ngửi được mùi hương hay nghe được âm thanh đó khi đang được nằm ấm áp trong vòng tay bảo bọc của mẹ. Ký ức đó theo bạn mãi dù bạn không thể nhớ ra được nó.
Nếu cố gắng (và “may mắn”) nhớ ra được nguồn gốc của ký ức này, lúc này bạn sẽ trải qua cảm giác “nhớ lại”. Lần này bạn vẫn có cảm xúc, nhưng tất nhiên, “nhớ lại” lúc này không thể mang đến cho bạn cảm xúc mạnh như khi “sống lại” được.
Cảm giác “sống lại” là cảm giác vô thức, bạn không biết rằng nó tồn tại nhưng nó vẫn tạo ảnh hưởng mạnh mẽ lên bạn. Cảm giác “nhớ lại” là cảm giác của ý thức, bạn đã nhận biết được lý do nó tồn tại nên lúc này mức độ ảnh hưởng được giảm bớt và có thể kiểm soát được.



Điều này cho thấy, quá khứ luôn đóng một vai trò quan trọng, chúng ta phần lớn sẽ không nhớ về ký ức, cảm giác đã từng tồn tại nhưng về cơ bản, chúng vẫn đang ngày đêm chi phối mô thức suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta ở thì hiện tại.
Nhưng mọi chuyện sẽ trở nên dễ thở hơn nếu chúng ta có khả năng quan sát, mang những gì đang hoạt động ở tầng “vô thức” lên được tầng “ý thức”. Hay nói đơn giản hơn, bạn tự nhiên sẽ đỡ đau hơn, nếu bạn biết vì sao bạn đau và thậm chí có thể hết đau hẳn nếu bạn chữa lành được nó.

3- Bạn, có 3 nhân cách:

Một người phụ nữ đang nổi nóng với con mình, bỗng nhận được cuộc điện thoại từ sếp, cô nhanh chóng bắt máy với giọng tươi vui. Sau khi gác máy, cô lập tức quay trở lại với trạng thái cáu kỉnh ban đầu, tình hình xem ra vẫn vậy. Nhưng, trong phút chốc đó, đã có gì đó thay đổi bên trong cô ấy, có gì đó đã chuyển dịch qua – lại!?
Theo Berne, nhân cách mỗi người gồm 3 Cái-Tôi. Chúng được hình thành từ tuổi thơ và giờ đây được chúng ta vô thức mang ra sử dụng mỗi giờ- mỗi phút- mỗi giây trong những tình huống khác nhau của đời sống. Đó là:
_ Cái-Tôi-Cha-Mẹ _ Cái-Tôi-Trẻ-Em _ Cái-Tôi-Người-Lớn
Cái-Tôi-Cha-Mẹ là phần nhân cách có vai trò quản trị và cấm đoán bản thân bạn làm những điều “không đúng”. Cái-Tôi-Trẻ-Em là phần nhân cách rất cảm xúc và bốc đồng. Cái-Tôi-Người-Lớn là phần nhân cách đóng vai trò cân bằng, “lý trí” nhất.
Và đây là cách chúng đã hình thành trong quá khứ:
Cái-Tôi-Cha-Mẹ được hình thành bởi tác động từ môi trường bên ngoài. Chất liệu để hình thành nên Cái-Tôi-Cha-Mẹ là điều mà cha mẹ (hoặc người nuôi dưỡng trực tiếp) của bạn đã từng thể hiện qua lời nói hoặc hành vi. Đối với một đứa trẻ nhỏ bé như bạn đó sẽ là “chân lý”, bạn không có khả năng đánh giá điều đó là đúng hay sai, tiêu cực hay tích cực, 100% dữ liệu sẽ được “nhập trực tiếp” vào hệ thống nhận thức của bạn mà không cần thông qua kiểm duyệt.
Sẽ không khó để bắt gặp những mẫu câu tiêu cực được người lớn truyền đạt như: “học hành như vậy sau này không làm nên trò trống gì”, “mày cũng hư hỏng hệt như mẹ mày” hay “con đừng bao giờ tin tưởng đàn ông”.
Nhưng cũng sẽ có những dữ liệu tích cực như “con không được chạy ra đường nếu không xe sẽ làm con đau”, “con phải chăm chỉ học hành để trở thành người có ích”. Những chương trình tivi, sách truyện,… trẻ tiếp xúc trong giai đoạn này cũng góp phần vào việc hình thành Cái-Tôi-Cha-Mẹ của trẻ.
Trẻ tin nếu muốn sống được trong cuộc đời này, phải tuân thủ đúng những nguyên tắc đó, những nội dung này rất khó xóa bỏ và có khả năng ảnh hưởng suốt đời trẻ. Nếu những chất liệu cha mẹ trao truyền càng lành mạnh thì Cái-Tôi-Cha-Mẹ của trẻ sẽ được nuôi dưỡng một cách khỏe mạnh và ngược lại.
Cái-Tôi-Trẻ-Em được hình thành bởi chính bên trong thế giới nội tâm của bạn, Là quá trình bạn “nghe thấy - nhìn thấy - cảm nhận thấy và hiểu” về thế giới xung quanh.
Chúng ta ai cũng đã từng có Cái-Tôi-Trẻ-Em Không-Ổn vì ai trong chúng ta cũng đều từng là một đứa trẻ. Mối quan hệ cộng sinh 9 tháng trong bụng mẹ, cảm giác được bảo bọc tuyệt đối này thật an ổn. Khi vừa được sinh ra, chúng ta “mất tất cả”, tay trắng, hình hài bé nhỏ, không biết nói, không biết đi và xung quanh là những “gã khổng lồ” cao một-mét-bảy.
Để có được cảm giác an toàn, một cách tự nhiên chúng ta đã học được cách “nghe lời và nhìn sắc mặt” của người lớn để sống. Do đó, theo Berne, dù bạn có may mắn được cặp đôi cha mẹ tốt lành nhất nuôi dưỡng thì bạn cũng đã từng có Cái-Tôi-Trẻ-Em Không-Ổn, vì xuất phát điểm thể lý là không thay đổi. Đây là “sản phẩm phụ” bắt buộc phải có khi đến với thế giới này. Khi lớn lên, chúng ta vẫn bị ảnh hưởng mỗi khi “sống lại” những sự thất vọng của Cái-Tôi-Trẻ-Em Không-Ổn trong giai đoạn khủng hoảng nguyên thủy này.
Nhưng Cái-Tôi-Trẻ-Em không chỉ có màu sắc đen tối, đây cũng là nơi đầy màu sắc, vùng đất của hi vọng và những khát khao. Đứa trẻ đó đã từng rất tò mò, sáng tạo, ham muốn được khám phá và trải nghiệm thế giới. Những giai điệu vui tươi, nhịp nhàng của một buổi chiều đầy nắng, lần đầu tiên bạn biết cách cho diều bay lên cao, lần đầu tiên bạn được chạm vào một con mèo,…
Tuy nhiên, cảm xúc Không-Ổn của bạn sẽ luôn nặng ký hơn cảm xúc Ổn. Do đó, tổng thể, chúng ta đều có một Cái-Tôi-Trẻ-Em Không-Ổn ngay từ khi bắt đầu.
Cái-Tôi-Người-Lớn được hình thành từ 10 tháng tuổi, khi trẻ bắt đầu có khả năng tự vận động và dần có cảm giác làm chủ được nhiều thứ trong cuộc sống của mình. Cảm giác “tôi có thể mang lại sự an toàn cho tôi” xuất hiện.
Tuy nhiên ở giai đoạn đầu này Cái-Tôi-Người-Lớn rất mong manh, chỉ mang tính thử nghiệm và có thể bị đàn áp ngay lập tức bởi Cái-Tôi-Cha-Mẹ và Cái-Tôi-Trẻ-Em. Nhưng Cái-Tôi-Người-Lớn biết được là nó vẫn sống và tiếp tục ngày càng trưởng thành hơn.
Cái-Tôi-Người-Lớn là khả năng chọn lựa, phân tích, đánh giá và xử lý thông tin trước mỗi tình huống khác nhau. Cái-Tôi-Người-Lớn nhận ra sự khác biệt về cuộc sống mà nó được dạy (Cái-Tôi-Cha-Mẹ) và cuộc sống mà nó mong muốn hoặc tưởng tượng ra (Cái-Tôi-Trẻ-Em). Cái-Tôi-Người-Lớn chính là thực tiễn cuộc sống mà chúng ta tự thân vận động tìm hiểu được.



Một ví dụ về sự hoạt động của 3 Cái-Tôi:
Cái-Tôi-Cha-Mẹ từng được nhập vào dữ kiện “đàn ông là không đáng tin cậy”. Cái-Tôi-Trẻ-Em từ dữ kiện đó luôn có cảm giác e dè, sợ sệt với đàn ông. Cái-Tôi-Người-Lớn sẽ ra ngoài kia, nhìn ngắm và tương tác với thế giới thật sự, sau đó đánh giá lại thông tin của Cái-Tôi-Cha-Mẹ và Cái-Tôi-Trẻ-Em đã nhập liệu đúng hay chưa, nếu nhập sai, Cái-Tôi-Người-Lớn sẽ quyết định sửa nó lại. Kết quả là “Đàn ông có người đáng tin cậy và có người không đáng tin cậy, không phải ai cũng mang màu đen tối và không phải tất cả đều tốt đẹp”.
Lưu ý là cảm giác e dè của Cái-Tôi-Trẻ-Em về chuyện này không hề biết mất khi Cái-Tôi-Người-Lớn phân tích được dữ liệu đúng, cảm giác đó đã được ghi và không thể xóa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ biết được là nó có tồn tại và có quyền bấm nút tắt. Nghĩa là “ừ, biết tôi biết rằng mình vẫn đang e dè, nhưng cũng biết rằng sự e dè này không hợp lý, tôi sẽ cho mình cơ hội nếu gặp được người đàn ông chân thành mà sẽ không quá sợ hãi nữa”. Hãy cứ e dè, và cũng hãy cho mình cơ hội.
Nếu Cái-Tôi-Người-Lớn không đủ phát triển hoặc tập hợp không đủ thông tin xác thực mới thì không thể làm thay đổi thông tin sai lệch cũ.

4- Tương tác Xã hội: Bốn vị thế - Bạn là ai?

Được rồi, đọc đến đây chắc hẳn bạn đã biết chúng ta đều từng Không-Ổn và thế giới xung quanh toàn những “gã khổng lồ” Ổn. Do đó, Tôi-Không-Ổn / Bạn-Ổn là vị thế đầu tiên được hình thành trong quan hệ của chúng ta với những người xung quanh. Trong cuối năm 2 tuổi, bạn sẽ vô thức quyết định mình sẽ chọn tiếp tục vị thế đầu tiên đó hay chuyển dịch sang 2 nhóm vị thế khác.
Nhóm 1: Tôi-Không-Ổn / Bạn-Ổn Nhóm 2: Tôi-Không-Ổn / Bạn-Không-Ổn Nhóm 3: Tôi-Ổn / Bạn-Không-Ổn
Cái gì quyết định sự lựa chọn này? Đó là việc trẻ có được người lớn vỗ về, chăm sóc về cả thể chất và tinh thần hay không



Mỗi nhóm vị thế sẽ có những mẫu tính cách tương ứng.
Nhóm 1: Tôi-Không-Ổn / Bạn-Ổn: “Nếu muốn được yêu thương, tôi phải vâng lời”.
Với nhóm này, mẫu nhân cách có thể cơ bản được định hình theo 3 dạng: (1) Người sống thu rút và chấp nhận là một đứa trẻ ngoan lặng lẽ để tiếp tục nhận được sự vỗ về từ người lớn; (2) Trở thành kẻ nổi loạn, “à ừ được rồi, các người nói tôi không vâng lời là không được yêu thương, vậy thì tôi không vâng lời nữa, dù sao tôi cũng không được yêu thương”. Những người này luôn sống với sự tuyệt vọng về bản thân, dùng sự ngỗ nghịch để thu hút sự chú ý. (3) Trở thành người phấn đấu điên cuồng để tìm kiếm sự công nhận, rất quyết tâm trong việc làm hài lòng người khác. Nhìn từ ngoài vào, trở thành kiểu người này có vẻ rất khả quan vì với đặc tính phấn đấu không ngừng nghỉ của mình họ sẽ có thành công về điểm số, vật chất,… nhưng họ khổ tâm vì chưa bao giờ được sống vì hạnh phúc thật sự của mình cả.
** Người thuộc nhóm này có số lượng phổ biến nhất so với các nhóm khác.
Nhóm 2: Tôi-Không-Ổn / Bạn-Không-Ổn: “Dù có cố gắng, tôi cũng không được yêu thương”
Điều gì đã xảy ra với “Tôi-Ổn” ban đầu? Nó đã biến mất. Vì sự vỗ về đã biến mất. Đây là nhóm trẻ không được quan tâm hoặc bị bỏ bê. Hãy tưởng tượng đó là một đứa trẻ 1 tuổi không được ăn đủ bữa, không được ôm, vài ngày mới được tắm một lần, nếu có bệnh thì cũng ráng mà tự qua khỏi. Trẻ “cầu cứu” mong ước được sự chăm sóc, vỗ về từ cha mẹ nhưng nhu cầu của trẻ thường xuyên bị phớt lờ hoặc không được coi trọng, dần dà trẻ không còn hi vọng và trông đợi gì nữa.
Khi trưởng thành, người này thường có xu hướng dễ bỏ cuộc trong cuộc sống, lối sống cực kỳ thu rút, có tâm lý muốn thoái lui về những năm đầu đời (thời điểm duy nhất mình được yêu thương, ôm ấp nhiều nhất – vì mình là đứa trẻ sơ sinh). Phần đông những người ở viện tâm thần thuộc nhóm này.
Nhóm 3: Tôi-Ổn / Bạn-Không-Ổn: “Chỉ có duy nhất tôi có thể bảo vệ tôi”
Điều gì đã xảy ra mà có sự chuyển dịch vị thế nhanh chóng như vậy? Đây là những đứa trẻ bị bạo hành đủ lâu. Tôi-Ổn chính là “sản phẩm” của sự tự vỗ về sau mỗi trận bạo hành, với những tổn thương nghiêm trọng và đau đớn (có thể chảy máu hoặc gãy xương). Trong lúc tự ôm ấp chính mình, “sự thoải mái cô độc” được hình thành, tôi sẽ ổn nếu tôi một mình, tự tôi có thể cứu vãn cuộc đời mình.
Khi trưởng thành, người này luôn có xu hướng tin tưởng mọi vấn đề bất ổn xảy ra là do người khác. “Dù tôi có phạm pháp cũng là lỗi của người khác, không phải tôi”. Lòng thù hận của trẻ không bao giờ biến mất nhưng nó có thể được che giấu bởi sự lịch thiệp khi trưởng thành. Bởi sự hoang tàn này, họ có thể trở thành những người “mạnh mẽ” được nhiều người khác theo sau kính nể, nhưng sâu thẳm họ biết, họ rất đơn độc. Phần đông những kẻ tội phạm thuộc nhóm này.

5- Chúng ta nên chấp nhận số phận mình trong 3 vị thế trên?

Không, chúng ta có thể thay đổi sang vị thế thứ Tư: Tôi-Ổn / Bạn-Ổn.
Nếu ba vị thế đầu tiên được xây dựng dựa trên cảm giác và được lựa chọn bởi vô thức, thì vị thế Tôi-Ổn / Bạn-Ổn được xây dựng dựa trên tư duy, đức tin, sự dũng cảm và được lựa chọn bởi ý chí tự do của bạn. Đặc trưng khác biệt tuyệt đối này sẽ tạo nên sự chuyển biến lớn trong tâm thức.



Bài đến đây cũng đã khá dài để có thể viết thêm, tôi hi vọng bạn đã thích bài viết này. Tất cả những gì tôi truyền đạt thuộc các chương đầu tiên của I’m OK – You’re OK, giúp bạn hiểu được nguồn gốc những khó khăn tâm lý bạn đang gặp phải. Vẫn còn đó rất nhiều kiến thức tôi muốn chia sẻ đến bạn về cách thức phát triển Cái-Tôi-Người-Lớn, và chuyển đổi vị thế trong tương giao với người khác để từ đó có được một cuộc đời tự do.
Để tôi biết rằng bài viết này được bạn đón nhận và mong chờ sự xuất hiện của phần 2: “Trò chơi có thể thay đổi”, tôi cần bạn nhấn upvote bài viết này, nếu đạt 60 lượt upvote trước ngày 12/08/2023, tôi sẽ thực hiện phần tiếp theo. Hẹn gặp lại bạn ở đó!

Người thực hiện: Chloe Châu với kiến thức cá nhân và tổng hợp
Sách “Bửu Sơn Kỳ Hương” – Ngẫm về nhân sinh trong trời đất
1.
Câu chuyện xảy ra cách đây 200 năm ở miền Tây và Nam Kỳ vào cuối những năm 1700, đầu những năm 1800 (cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19) với nhiều cuộc binh biến nổi dậy, tình hình chính trị rối ren, lúc chữ quốc ngữ đang bắt đầu truyền bá vào Việt Nam bởi các giáo sĩ người Bồ, sau cuộc binh biến Tây Sơn và việc bài trừ Thiên chúa giáo đang diễn ra gay gắt. Đây cũng là thời điểm Phật thầy Tây An (Phật Ngồi) xuất hiện và sau đó lập nên phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
Lâu rồi mình mới đọc được một cuốn sách hay như vậy vì khiến mình đọc liền một mạch. Nhẹ nhàng nhưng cũng hồi hộp, cũng bom đạn rần rần, nước mắt nước mũi tùm lum, cùng cười cùng khóc, cùng nổi da gà qua từng trang sách. Hay thật sự!
Sách “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Ảnh: Lê Diễm Diễm
Mình thấy cái hay của Lý Lan nằm ở chỗ, có những người, những mối quan hệ tưởng chừng chẳng liên quan gì nhau, như những mảnh ghép rời rạc không liên hệ gì, nhưng đằng sau đó là cả một mối dây ràng đã sẵn sàng níu họ vào chung một đoạn đường, rối rắm và vi diệu như cách tạo hoá đã dựng xây nên thế giới này. Câu chuyện nói về Phật Thầy mà lại chẳng nói về Phật Thầy, như thể mở ra bức tranh lớn hơn về bối cảnh xã hội chính trị đang lúc bão bùng thời kỳ đó, để người ta quay về thực hiện tốt đạo làm người và sống đúng với tôn chỉ đó.
Một điểm nữa mình thấy rất thú vị, đó là tất cả các nhân vật trong “Bửu Sơn Kỳ Hương” ai cũng đều là nhân vật chính dù họ chỉ là những người vô danh hay là người có ảnh hưởng đến xã hội. Từ một chị Hai điên không ai biết từ đâu tới, từ một anh Bình làm công cho Phước Xuân Đường, một chị bán khoai nào đó ở chợ, đến một cậu thanh niên Vĩnh Xương, thầy Tịnh, đến cậu bé đẻ rớt trôi sông năm nào cũng vặn mình trở thành Vĩnh Long có sức ảnh hưởng đến đại cuộc. Tất cả các nhân vật hiện lên rõ ràng, dù họ có được nhắc đến nhiều hay không thì họ vẫn là nhân vật chính trong cuộc đời của họ. Đó chính là cuộc đời.
Trong tác phẩm này, Lý Lan đóng vai người kể chuyện, thủ thỉ thù thì, chẳng phân ai sang ai hèn, ai ác ai hiền, chẳng bênh vực ai cũng chẳng ngợi ca ai mà chỉ để các nhân vật tự nhận xét lẫn nhau. Bà chỉ đóng vai người kể, không phân biệt ai đang nói, cứ một mạch tuôn chảy theo từng câu chữ như dòng thác bất tận.
2.
Câu chuyện để lại cho mình nhiều cảm xúc, như thể mình đang sống trong bối cảnh đó, như cuốn phim tái hiện đời sống của những người dân lục tỉnh, loạn lạc, thất lạc nhau, tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống giữa cuộc đời luôn nơm nớp lo sợ giữ cái mạng trước tiên. Dù sống giữa thời loạn lạc nhưng họ vẫn hết lòng hướng Phật. Có lẽ, giữa thế cuộc rối ren, người ta chẳng biết bám víu vào đâu nên chỉ còn một con đường duy nhất là nương nhờ Phật pháp. Để rồi, những con người đơn giản, nồng hậu, ấm áp ấy luôn sẵn sàng sẻ chia cho nhau, nương tựa nhau mà sống.
Trước giờ mình nghĩ là thời buổi này loạn lạc nên việc có gia đình sinh con sẽ khó khăn lắm. Nhưng cuốn sách này là những người phụ nữ sống trong thời chiến, con không biết cha, con phải xa mẹ, anh em không biết mặt nhau, quá đau lòng. Nhưng rồi người ta vẫn sinh con, vẫn sống, đứa nào sống thì sống, đứa nào không quá được thì chấp nhận. Có lẽ càng chiến tranh thì người ta càng không muốn tuyệt tự và họ đã sống hết mình vì đời sống của họ. Điều này làm mình suy nghĩ lại về việc lập gia đình của mình và rất nhiều vấn đề sâu xa hơn trong xã hội cũng như góc nhìn tâm linh.

Thân phận con người giữa cuộc đời lênh đênh nhiều biến động
Một điều khiến mình ám ảnh nữa là cuộc đời họ lênh đênh như chiếc lá trên sông, không biết đi đâu về đâu. Nay tính hôm nay chứ không lo xa ngày mai. Họ cũng có lý tưởng, có ước vọng nhưng không phải ai cũng thực hiện được. Rồi cuộc đời đưa đẩy, người này gặp người kia, chuyện này dính chuyện kia, rồi sống nay chết mai cũng không ai biết. Nên rốt cuộc, họ chọn sống hết mình, hoặc an phận làm chiếc lá trôi sông… Những con người vô danh và dường như vô định ở cõi đời. Họ chẳng nghĩ đâu xa xôi, hôm nay mở mắt ra còn sống là được.
“Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu”.

Câu thơ này khiến mình ngẫm lại thời cuộc tại thế, những thứ sắp xảy ra, những chuyển biến chấn động sơn hà sắp tới, những gì con người đã và đang làm. Ôi! Mình thấy buồn, thấy thương mình và thương cả những con người chưa hay biết gì nên vẫn còn lầm lạc. Cuốn sách như một lời nhắc để mình sống trọn vẹn hơn mỗi ngày, để mình rốt ráo tìm về nương tựa chính chân tâm mình.
“Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng vạn cảnh như không
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”.

Có một câu nói của Phật Thầy làm mình nhớ mãi:

“Không biết nhau mà như biết nhau. Không ơn nhau mà như ơn nhau. Có duyên thì gặp lại, không gặp lại cũng không sao”.


Và suy ngẫm của một nhân vật về câu nói ấy của Phật Ngồi:
“Gặp nhau, quen nhau, ơn nhau, rồi lạc nhau, tìm nhau, gặp nhau rồi lạc nhau, lại tìm nhau. Đó chẳng phải cuộc đời sao, những vòng xoắn vô tận hợp tan, như Phật Ngồi từng nói. Tìm nhau là đã lạc nhau, gặp nhau là sắp xa nhau…”

Những câu thơ của Nguyễn Du trong “Văn tế thập loại chúng sinh” cũng làm mình thấy nổi da gà xúc động:
“Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương khói đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen
Có chi ai quý ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.”

Bỗng nhớ đến mấy câu thơ trong một bài thơ mình làm hồi tháng bảy:
“Chiếc lá úa chao nghiêng rồi chạm đất
Tựa kiếp người trôi nổi chốn phù du.
Lòng tự hỏi điều chi ta vụt mất,
Giữa cõi nhân gian, hiu quạnh mịt mù?”

Đôi lúc mình thấy sự mông lung vô định của kiếp người. Đôi lúc mình thấy con đường mình sáng rõ, thẳng tắp bon bon. Cũng chỉ là vô thường, mình nương theo đó mà phản hồi.
Và rồi, chúng ta đang sống, với tình yêu và hy vọng.
“Bửu Sơn Kỳ Hương” của Lý Lan không nhấn mạnh về sự thành lập của một giáo phái mà tựa như ngầm nhắc về sự nương tựa cuối cùng của con người giữa thời giặc giã biến loạn, giữa lịch sử ngổn ngang để họ sống và hy vọng. Mong bạn cũng lạc vào không gian văn chương sống động này và ngẫm được nhiều điều thú vị để có thêm những bài học triết lý sâu sắc cho mình.
Và rồi, chúng ta đang sống, với tình yêu và hy vọng.
Lê Diễm Diễm
Cơ bản về nến và cách đọc biểu đồ nến Nhật trong chứng khoán
Nến là một công cụ được sử dụng rộng rãi hiện nay để biểu diễn sự biến động giá của một loại tài sản hay chỉ số trong một khoảng thời gian nhất định. Trong phân tích, có nhiều loại biểu đồ mà nhà đầu tư có thể sử dụng nhưng phổ biến nhất là biểu đồ nến Nhật.
Bắt nguồn từ Nhật Bản vào khoảng thế kỷ 18, biểu đồ nến Nhật (candlesticks chart) được sử dụng lần đầu tiên trong những giao dịch hàng hóa gạo. Về sau, khi thị trường toàn cầu và sự trao đổi giữa các thị trường phát triển, biểu đồ nến được phổ biến trên khắp thế giới và đem đến một công cụ hiệu quả giúp trực quan hóa sự biến đổi của giá cho nhà đầu tư trong các giao dịch.
Cấu tạo của nến Biểu đồ nến bao gồm nhiều cây nến khác nhau, mỗi nến thể hiện sự biến động của giá trong một khung thời gian nhất định + Giá mở cửa (Open price) kí hiệu là O + Giá đóng cửa (Close price) kí hiệu là C + Giá cao nhất (Highest price) kí hiệu là H + Giá thấp nhất (Lowest price) kí hiệu là L

Cách đọc các yếu tố cơ bản của nến trên biểu đồ của cổ phiếu HPG (lấy ví dụ ngày 10/09/2024)

Các phần của một nến Một cây nến luôn được xác định trong một khoảng thời gian. Nó bao gồm 2 phần chính: thân nến và bóng nến. + Thân nến (phần có màu xanh hoặc đỏ) thể hiện phạm vi dao động giá giữa hai thời điểm đóng cửa và mở cửa. + Bóng nến (hay còn gọi là râu nến) thể hiện phạm vi mức giá trên và dưới của sản phẩm giao dịch. Màu của nến được quyết định dựa trên giá mở cửa và giá đóng cửa. Nếu giá mở cửa cao hơn giá đóng cửa thì nến sẽ mang màu đỏ (nến giảm). Nếu giá mở cửa thấp hơn giá đóng cửa thì nến sẽ mang màu xanh (nến tăng).

Tóm tắt cơ bản về cấu tạo của một nến

Các loại nến cơ bản thường gặp trong phân tích

Nến tiêu chuẩn (Standard)



Ý nghĩa: thể hiện xu hướng hiện tại đang diễn ra (nến xanh đang là xu hướng tăng, nến đỏ là xu hướng giảm)

Nến Doji tiêu chuẩn


Đặc điểm: giá mở cửa và giá đóng cửa xấp xỉ nhau Ý nghĩa: thể hiện sự do dự trong việc xác định vị thế (mua hay bán) của nhà đầu tư, không phe nào định đoạt được thị thị trường.

Nến cường lực (Maruozu)



Đặc điểm: Thân nến dài (giá mở cửa và đóng cửa cách xa nhau), hoàn toàn không có bóng nến hoặc có nhưng không đáng kể Ý nghĩa: thể hiện lực mua (đối với nến xanh) hay lực bán (đối với nến đỏ) đang rất mạnh và áp đảo bên còn lại

Nến búa (Hammer)



Đặc điểm: nhìn giống chiếc búa là được, có thể có bóng nến trên nhưng rất nhỏ không đáng kể Ý nghĩa: thường báo hiệu cho sự kết thúc và đảo chiều của xu hướng. Đối với nến xanh, xu hướng giảm sẽ kết thúc để chuyển qua xu hướng tăng. Ngược lại đối với nến đỏ, xu hướng tăng sẽ dừng lại và nhường cho xu hướng giảm.

Nền tảng cơ bản của một nhà đầu tư bắt đầu từ việc nhìn những cây nến và xa hơn nữa là đọc biểu đồ giá. Các yếu tố cơ bản để thành thạo biểu đồ nến Nhật đã được tôi tóm tắt và giải thích một cách dễ hiểu nhất để các nhà đầu tư mới hoặc đã có kinh nghiệm đều có thể tiếp cận. Nếu bạn thấy có những thiếu sót trong bài viết hoặc thắc mắc bất cứ vấn đề nào về bài viết, hãy để lại bình luận hoặc gửi ib trực tiếp cho tôi. Cảm ơn bạn vì đã xem bài viết này và chúc các nhà đầu tư đang đọc sẽ sớm thành công trên thị trường trong tương lai.

Saturday, December 14, 2024

[Review Book] Giải trí đến chết (Neil Postman)
Dạo này mình tái nghiện Facebook, dùng mạng xã hội quá 180p một ngày nên đang tự thấy không ổn và phải đọc cuốn này với hi vọng tỉnh ngộ ra đây. Vẫn chưa rõ ngày tỉnh của mình nhưng đọc cuốn này đúng thật thấy ngộ ra nhiều điều.

Lời giới thiệu đằng sau cuốn sách có ghi “Cuốn sách của thế kỷ XXI, xuất bản trong thế kỷ XX” và mình thấy nó đúng thật, một cuốn sách viết về thời đại của truyền hình, nhưng nó càng đúng hơn nữa ở thời đại bùng nổ internet và mạng xã hội như bây giờ. Trong chúng ta, có ai mà không có một chương trình truyền hình yêu thích hay không cảm thấy sức thu hút mãnh liệt của mạng xã hội. Một số người tận dụng được sức mạnh của truyền thông trong khi số khác thì đơn giản thành nạn nhân của nó, nhưng không mấy người dứt ra được sự ảnh hưởng của truyền hình và các phương tiện truyền thông số. Nếu câu hỏi của bạn là: liệu rằng ngoài việc khiến chúng ta phung phí thời gian và sự chú ý, thì các phương tiện truyền thông của thời đại này còn có tác động gì đến đời sống, văn hóa xã hội, cách chúng ta suy nghĩ, phản ứng,… thì cuốn sách này là dành cho bạn.

Nội dung trọng tâm của cuốn sách này ban đầu nghe có vẻ khó hiểu, đó là: phương tiện truyền thông là một phép ẩn dụ. Ý của tác giả đó là : phương tiện truyền thông nào phát triển ở một thời đại thì phương tiện đó sẽ ảnh hưởng đến cách mà con người ở đấy tư duy và chúng ta có thể hiểu về văn hóa của một thời đại bằng cách nhìn vào công cụ dùng để truyện trò của nó. Cuốn sách chia là hai phần trong đó phần 1, tác giả tập trung phân tích thời đại trước, kéo dài khoảng 400 trăm năm, khi mà phương tiện truyền thông quan trọng nhất của nó chính là : chữ viết (bao gồm sách, báo và các hình thức in ấn khác) và phần thứ 2 là sự nổi lên của truyền hình, thứ thay thế chữ viết thành phương tiện truyền thông mới của thời đại. Neil Postman chỉ ra rằng, chữ viết có một sự khác biệt cơ bản với truyền hình. Chữ viết yêu cầu cả người đọc và người viết phải trình bày theo ngữ cảnh, phải có lớp lang, lý lẽ, nó tạo điều kiện để những chiêm nghiệm của ta được xem xét một cách kỹ lưỡng , liền mạch và tập trung. Truyền hình thì lại khác, nó liên tục đưa ra cho chúng ta thông tin, nhưng là những thông tin rời rạc, không liền mạch và trước khi ta kịp suy tư điều gì thì nó lại đưa ra cho ta một thông tin mới, khơi gợi sự quan tâm và tò mò của người tiếp nhận. Nó biến thông tin thành một thứ hàng hóa, “một thứ có thể được mua và bán mà không liên quan gì đến giá trị sử dụng và ý nghĩa của nó”. “Các thông tin cứ tiếp nối nhau đi vào ý thức của con người rồi lại đi ra, với một tốc độ khiến con người không thể đánh giá những thông tin ấy, mà cũng không đòi hỏi con người phải đánh giá”. Và một điều quan trọng khác, truyền hình đưa chúng ta hình ảnh. Chữ viết thì chẳng có gì thu hút về mặt thị giác nhưng những hình ảnh truyền hình thì khác. Tác giả chỉ ra “Những gì mà mọi người xem và thích xem là những hình ảnh chuyển động - hàng triệu hình ảnh chuyển động, với thời lượng ngắn, sôi nổi và đa dạng. Bản chất của phương tiện truyền hình là hạn chế các nội dung nêu ý kiến, nhằm đáp ứng các nhu cầu về hình ảnh trực quan, cũng có nghĩa là điều chỉnh cho phù hợp với công nghệ giải trí.” (Bạn có thấy giống mô tả Tiktok không 😄 ? ) Và bởi vì thị giác (và cả thính giác) là một phần không thể thiếu của truyền hình, điều đó có nghĩa là bất cứ nội dung nào trên truyền hình thì đều yêu cầu yếu tố về hình ảnh, và một khi như vậy, ta không thể hoàn toàn tập trung vào nội dung mà nó đề cập, mà sẽ không ít thì nhiều, suy xét về những yếu tố gây nhiễu, bên lề: như ngoại hình của người đang phát biểu, như phong thái và cách ăn mặc, hay những âm nhạc, hình ảnh góp phần kích động tâm trạng của ta.

Tất nhiên là sự giải trí thì không có gì là sai, nó chỉ trở thành vấn đề khi ta biến mọi vấn đề thành sự giải trí. Đó là khi ta lôi cả khoa học, giáo dục , chính trị và cả tôn giáo lên truyền hình và biến những vấn đề cần sự nghiêm túc và suy nghĩ thấu đáo thành một sự giải trí. Không phải vì mọi người coi thường những chủ đề đó nên mang nó lên truyền hình mà ngược lại, chính vì hiểu được sức ảnh hưởng của truyền hình, mà mọi chủ đề đều được đề cập với hi vọng thu hút được sự phổ cập lớn hơn. Nhưng khi được mang lên truyền hình, những chủ đề nghiêm túc đã bị bóp méo và thông điệp nó muốn mang đến cũng được hiểu khác đi. Người xem truyền hình cũng biết rằng, dù tin tức nghiêm trọng nào có thể xuất hiện, thì thông tin đó sẽ sớm được tiếp nối bởi quảng cáo, hay một tin tầm phào nào khác, và cảm xúc của người xem về tin tức nghiêm trọng kia sẽ được “xoa dịu”. Dần dà, người xem sẽ cảm thấy không có gì thực sự nghiêm túc và liên quan đến mình cả. Một loạt thông tin tràn vào bộ não và không khuyến khích ta làm bất cứ một điều gì cả. Và đó mới là thứ đáng sợ của truyền hình, điều mà có lẽ bạn cũng cảm nhận thấy từ cả các mạng xã hội ngày nay.

Vậy đâu là giải pháp cho những con nghiện giải trí của thế kỷ XXI ? Neil Postman nói một điều chí lý khác đó là : đừng “tự huyễn hoặc mình và đưa ra những lập luận phi lý về việc xóa bỏ truyền hình”. Chẳng phải đợi đến ngày nay mới có các dự án “từ bỏ Internet/Mạng Xã hội” trong 7 ngày/ 30 ngày,..mà cả từ thế ký XX đã có những dự án tương tự để từ bỏ truyền hình. Nhưng đó chỉ là kế hoạch nửa vời, chúng ta sẽ không thể nào từ bỏ công nghệ. Giải pháp, nếu ta có thể thực sự coi đó là giải pháp, chỉ có thể là thay đổi cách chúng ta xem truyền hình. Hiểu về bản chất của nó và xem xét cả ảnh hưởng của nó đến mình nữa. Thế giới truyền hình, hay gần gũi hơn, chính là thế giới của Internet và các mạng xã hội là nơi tràn ngập giải trí và những thứ được tô vẽ, như một lâu đài trên mây. Vấn đề chỉ phát sinh khi bạn cố sống trong lâu đài đó, bạn chấp nhận nó như một điều tự nhiên và tiếp nhận mọi thứ nó đưa đến bạn như một điều đương nhiên: như đánh giá ai đó là xinh đẹp chỉ qua một bức ảnh hay phán xét ai đó là tồi tệ chỉ qua một câu nói không đầu cuối, được bóc ra khỏi ngữ cảnh. Và nghiêm trọng hơn, ta nghĩ rằng giải trí là định dạng tự nhiên cho mọi trải nghiệm.

Điều mình có thể rút ra được trong cuốn sách này đó là: nếu không muốn trở thành nạn nhân của thời đại, bạn phải dành thời gian cho bản thân và bứt mình ra khỏi những sự thỏa mãn nhất thời, những tin tức tràn ngập nhưng không đem lại giá trị và khiến ta ù lì, không muốn hành động, và thứ giải trí quá dễ dàng, tràn ngập ở thời đại này, để nghiêm túc suy nghĩ về những gì bạn muốn và cần làm. Những thứ gọt đẽo mà chúng ta thấy trên mạng xã hôi, là một phiên bản không đầy đủ của những gì thực sự xảy ra ngoài cuộc sống thật, mà chỉ khi thực sự suy nghĩ kỹ và bắt tay vào làm, bạn mới thấy nó khắc nghiệt và kém giải trí đến nhường nào. Nhưng những điều sâu sắc nhất cũng vậy, nó xảy ra ở trong cuộc sống thật và bạn trải nghiệm nó bằng cách sống thật.

Cuốn sách này khá ngắn gọn, quan điểm của tác giả rất rõ ràng và nhất quán, cách viết cũng dễ hiểu, không lắt léo và bắt đúng 'căn bệnh' của thời đại. Highly recommend!
ngocblue
[Review Sách] Tâm trí và bản chất con người (Steven Pinker)
Bản chất con người là như thế nào khi nhìn dưới lăng kính khoa học ?

Tư tưởng của cuốn sách này được tác giả trình bày rõ ràng ngay từ lúc đầu: ông nêu ra những lý thuyết lớn về bản tính người từ trước đến nay, rồi sau đó ông lập luận để khẳng định tại sao những lý thuyết này lại sai lầm. Phần sau đó ông đưa ra những ý tưởng về điều gì làm nên bản chất người và rằng tại sao những bằng chứng và phát biểu khoa học dựa trên bằng chứng và thực nghiệm lại bị bác bỏ một cách tàn nhẫn bởi những người theo lý thuyết cũ và cách mà khoa học đã bị chính trị hóa và đạo đức hóa như thế nào. Qua đó, tác giả chỉ ra rằng: chỉ bằng cách tôn trọng sự thật và những bằng chứng mà khoa học chỉ ra , chúng ta mới có khả năng đối diện và giải quyết những vấn đề cấp bánh và quan trọng mà chính bản tính của chúng ta đã tạo ra.
Vậy đầu tiên, những lý thuyết cũ (và vẫn đang tồn tại đến ngày nay) về bản tính người là gì ? Và nó có mâu thuẫn như thế nào với những gì mà khoa học chỉ ra về bản tính người? Có 3 lý thuyết lớn về bản tính người đó là:
  1. Thuyết “Tờ giấy trắng”: nội dung chủ đạo của thuyết này đó là: con người sinh ra đều trong sạch như tờ giấy. Mọi thứ hình thành nên nhân cách chúng ta đến từ trải nghiệm, từ môi trường và giáo dục. Và do đó, điều này mở ra khả năng vô hạn của con người.
  2. Thuyết “Người man di cao quý” thì lại cho rằng mọi thứ thuộc về thiên nhiên đều là tốt đẹp, và do đó con người tự nhiên cũng là tốt đẹp và cao quý, vị tha, yêu chuộng hòa bình, chúng ta chỉ bị hủy hoại đi bởi văn hóa và tiếp xúc với những thói hư tật xấu của thời đại.
  3. Thuyết “Linh hồn trong cỗ máy” lại phát biểu rằng linh hồn con người là độc lập với thể xác, bởi cơ thể có thể tách rời còn tâm trí thì không, điều đó đặt ra khả năng rằng, khi cơ thể không còn thì có thể tâm trí vẫn tồn tại. Và vì vậy, linh hồn con người là cao quý và không bị xác thịt chi phối.
Vậy còn bản chất con người là gì dưới góc nhìn khoa học và nó mâu thuẫn ra sao với 3 học thuyết trên? Nhìn từ góc độ khoa học (dưới lăng kính của sinh học và tâm trí- khoa học nhận thức) thì con người, dù là có nhiều khác biệt giữa các cá nhân, nhưng đằng sau những khác biệt ấy, là một bản chất con người phổ quát, thứ giúp chúng ta có thể hiểu nhau, thúc đẩy ta hành động và chi phối ít nhiều cách chúng ta suy nghĩ và cảm nhận. Vậy bản chất con người phổ quát đấy là gì ? Có 5 ý tưởng lớn về điều này:
Thế giới tinh thần có thể kết nối với thế giới vật chất bằng các khái niệm về thông tin, điện toán và phản hồi. Như vậy, không có sự tách biệt hoàn toàn giữa linh hồn và thể xác. Chính xác hơn, cách chúng ta suy nghĩ, xử lý thông tin là một quá trình vật lý với những chất hóa sinh được tạo ra và khoa học đang dần dần hé mở cách thức mà tâm trí hình thành.
Tâm trí không thể là tờ giấy trắng, bởi những tờ giấy trắng không làm gì cả. Chúng ta có những bản năng chung, và chính những điều ấy thúc đẩy chúng ta có chung một khuynh hướng hành động. Văn hóa và giáo dục không thể nhào nặn con người một cách vô hạn được.
Các chương trình tổ hợp hữu hạn trong tâm trí có thể tạo ra một phạm vi vô hạn các hành vi. Chẳng hạn như ngôn ngữ, ta được trang bị khả năng học hỏi ngôn ngữ nhưng không được học sẵn một ngôn ngữ cố định, điều đó cho phép ta có hàng sa số những biến thể của các ngôn ngữ khác nhau, nhưng đồng thời cũng cho phép những người với ngôn ngữ khác biệt vẫn có thể tìm cách để cùng hiểu về một thứ.
Các cơ chế tinh thần phổ quát có thể làm nền tảng thu hẹp những khác biệt bề mặt giữa các nền văn hóa. Văn hóa ở mọi nơi đều khác biệt nhưng có thể quy về những điểm chính là những thứ mà con người dù ở đâu cũng quan tâm như: ăn uống, hôn nhân, hay là sự mê tín,…
Tâm trí là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều bộ phận tương tác với nhau. Điều đó cũng có nghĩa, ta không thể giản lược và nói về bản chất con người bằng một từ duy nhất như cao quý hay xấu xa. Hành vi của mỗi chúng ta được xuất phát từ cuộc đấu tranh nội tâm giữa các mô-đun tinh thần mà mỗi một mô-dun lại có một kế hoạch và mục tiêu khác nhau.
Bên cạnh đó, ngành di truyền học cũng chỉ ra rằng các gen có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi của chúng ta (và có một số ảnh hưởng bởi gen không hề cao quý chút nào). 18.000 tính từ chỉ đặc điểm tính cách trong từ điển có thể quy về 5 điểm chính: hướng nội hay hướng ngoại, thất thường hay ổn định, thờ ơ hay cởi mở với trải nghiệm, hòa nhã hay thù địch, có chủ định hay vô định. Cuối cùng tâm lý học tiến hóa đã chỉ ra rằng: sự tiến hóa chính là trung tâm của những hiểu biết về sự sống, bao gồm cả sự sống của con người. Chúng ta tồn tại đến ngày nay vì được thửa hưởng những đặc điểm cho phép tổ tiên chúng ta tồn tại và sinh sản, chúng ta chính là kết quả của chọn lọc tự nhiên. Cho dù trí não của chúng ta rất phức tạp và tinh vi, nó không tách rời khỏi tiến hóa mà ngược lại chính nhờ nghiên cứu tiến hóa, chúng ta hiểu về những động lực đã hình thành nên những suy nghĩ và cảm xúc của mình.
Với những tư tưởng như vậy, tâm trí và bản chất con người nhìn từ góc độ khoa học phủ định hoàn toàn 3 học thuyết lâu đời ở trên. Tâm trí không thể là tờ giấy trắng, nó được trang bị những năng lực nhất định ngay từ khi ra đời và được hoàn thiện dần trong quá trình sống. Nếu tâm trí là tờ giấy trắng, nó sẽ thực sự dễ bị uốn nắn và thao túng bởi các đối thủ, và như thế không thể có tính sinh tồn. Học thuyết người Man di cao quý cũng bị vạch trần. Đầu tiên là bởi bất cứ thứ gì hoàn toàn cao quý khó có thể là sản phẩm của chọn lọc tự nhiên, vì chọn lọc tự nhiên không quan tâm đến đạo đức, xung đột lợi ích là rất phổ biến giữa các sinh vật sống, những người cao quý có xu hướng và những người về đích cuối cùng. Thứ 2, những bằng chứng về lịch sự đã chỉ ra rằng, bạo lực và chiến tranh đã liên tục xảy ra trong lịch sử loài người, kể từ thời nguyên thủy để tranh giành các nguồn lực và cả để trả thù. Bạo lực cũng là một thứ được trang bị vào trong gen của chúng ta vì nó có ích cho quá trình sinh tồn của loài người. Tương tự như vậy: tình yêu, ý chí, lương tâm, thứ chúng ta vẫn hay gắn bó với linh hồn, và tách rời khỏi bản năng sinh học, thì thực ra, với khoa học, nó cũng là một phần của sự thích nghi trong quá trình tiến hóa của loài người và có sẵn trong mạch não chứ không hề tách biệt và thiêng liêng như ta tưởng.
Khi tư tưởng khoa học phản bác lại những học thuyết trên thì đồng thời khoa học cũng bị tấn công từ nhiều phía, từ chính những người theo đuổi học thuyết trên, lẫn những tấn công từ khoa học chính trị khi cố gắng gán khoa học với những động cơ chính trị vào đạo đức. Trong phần còn lại của cuốn sách, Steven Pinker lần lượt nêu ra các luận điểm này : ông làm rõ nhưng hiểu sai nghiêm trọng, những suy xét vô căn cứ và nêu ra những bằng chứng khoa học rõ ràng để chứng minh, và chính qua đó người đọc được làm sáng tỏ những luận điểm và những khía cạnh mở rộng từ những ý tưởng cơ bản đã kể trên. Ông tách biệt những kết luận của khoa học với những lập luận đạo đức để bảo vệ quyền con người và sự tiến bộ của xã hội. Tác giả cũng chỉ ra rằng, chỉ bằng cách nhìn nhận những gì chúng ta thực sự là, với cả những điểm xấu và điểm tốt, chúng ta mới có hi vọng thay đổi và cải thiện bản thân và xã hội, cũng như từ bỏ những suy nghĩ không tưởng về khả năng của con người, để tránh khỏi những đau khổ mà chúng ta không đáng phải chịu đựng.
Về cách viết thì Steven Pinker viết quá hay, văn phong của tác giả rất sắc sảo, lập luận logic nhưng lại không hề khô khan. Tác giả thường xuyên trích dẫn văn thơ, điện ảnh và thể hiện hiểu biết sâu rộng ở nhiều lĩnh vực, không chỉ lập luận khoa học, cả những lập luận về đạo đức cũng rất thuyết phục, cộng với khả năng dẫn dắt các ý tưởng một cách khéo léo, mượt mà.
Xuyên suốt hành trình của cuốn sách, bạn sẽ đi qua những cảm xúc cơ bản và sâu sắc nhất của con người: từ tình cảm gia đình, nỗi sợ hãi, xu hướng bạo lực, đạo đức và sự tôn nghiêm, nỗi đau khổ, đam mê quyền lực, và cả giới tính và sự thu hút giới,…Những điều mà cuốn sách chỉ ra, cho thấy rằng một mặt chúng ta có tính phổ quát giống nhau, nhưng mặt khác cũng khó lòng mà định nghĩa chính xác ta là người như thế nào, bởi những phần khác nhau trong con người liên tục tương tác và đưa ra những quyết định khác nhau ở những hoàn cảnh khác nhau, khi thì tử tế , khi thì ích kỷ. Con người ta được xây dựng từ gen và kết hợp với môi trường và giáo dục, từ từ hình thành nên cái mà chúng ta coi là một nhân cách duy nhất. Sẽ là không tưởng nếu ta muốn đập đi và xây dựng lại thành một con người với toàn các điểm tốt và tương thích hoàn hảo với xã hội hiện đại, nhưng đồng thời, cũng chỉ với khả năng vốn có của mình, sẽ luôn có điều gì đó mà ta có thể làm tốt hơn, và nhân loại vẫn luôn tiến lên vì điều đó.