Monday, May 6, 2024

MAO TRẠCH ĐÔNG - MẶT TRỜI ĐỎ CỦA NHÂN DÂN TRUNG QUỐC (P.1)
Trên cao có một mặt trời tỏa sáng, và trong trái tim mỗi người dân Trung Quốc cũng có một mặt trời không kém phần rực đỏ - Mao Trạch Đông. Nhắc tới cái tên Mao Trạch Đông, khắp thế giới cộng sản lẫn thế giới phương Tây chẳng có mấy ai là không biết tới ông. Có người xưng tụng ông là nhà lãnh đạo xuất sắc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, người đã tự mình tham dự rất nhiều trận mạc trong thời kỳ nội chiến, đã trực tiếp lèo lái đưa Đảng Cộng sản Trung Quốc và các dân tộc Trung Hoa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lại có người không tiếc lời thóa mạ ông vì là kẻ gây ra cuộc cách mạng văn hóa hủy diệt biết bao văn hiến của một lịch sử Trung Nguyên 5000 năm văn vật, là kẻ phát động những chiến dịch cải cách sai lầm khiến cả một vùng Á Đông trải qua nhiều phen khốn đốn đến tận ngày nay… Tuy nhiên, bất kể được khắc họa dưới góc nhìn nào đi nữa, sự nổi tiếng của Mao Trạch Đông là một điều không thể bàn cãi.

Mao Trạch Đông được ví như mặt trời đỏ trong lòng người dân Trung Quốc đại lục

Vậy, cuộc đời của con người đầy những sự tích quanh mình này đã trải qua những gì mà khiến nhân loại đến nay vẫn còn chưa thể quên được sức ảnh hưởng to lớn, theo cả danh tiếng lẫn tai tiếng đến thế? Cùng mình tìm hiểu về cuộc dời của Mao Trạch Đông thông qua bài viết dưới đây nhé!

1, Thủa thiếu thời

Trái với suy nghĩ của nhiều người rằng một nhân vật lịch sử tầm cỡ như Mao Trạch Đông thì hẳn phải có một tuổi thơ dữ dội, thực tế thì Mao đã trải qua một tuổi thơ “tương đối điển hình" so với những đứa trẻ cùng thời. Nhiều nhà sử học hiện đại nhận xét rằng chính vì lý do này mà các nhà viết tiểu sử trước đây cảm thấy khó "tìm thấy điều gì đó không ổn về cơ bản với Mao ngay từ khi còn nhỏ" mà họ hy vọng có thể giải thích sự phát triển sau này của ông, từ một người sát cánh bên nhân dân trở thành "một bạo chúa cách mạng".
Các ghi chép về tiểu sử của Mao Trạch Đông đều thống nhất rằng ông chào đời ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong một gia đình địa chủ ở làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Gia phả Mao tộc Thiều Sơn khẳng định Mao Thái Hoa là tổ phụ dòng họ. Theo đó, vị Mao tổ này quê gốc Giang Tây, sống vào giai đoạn Nguyên mạt Minh sơ, vì lánh nạn chiến tranh mà tới Hồ Nam an cư, sau đó bằng tài đức mà trở thành chúa đất của vùng.
Cha của Mao Trạch Đông, ông Mao Di Xương xuất thân vốn là nông dân nghèo, từng có thời tòng quân cho tổng đốc Hồ Quảng đời nhà Thanh. Dù gia cảnh nghèo khó, nhưng ông ta vừa có tính cần cù, vừa có đầu óc kinh doanh lại cũng rất tham lam. Sau khi giải ngũ, ông ta tranh thủ kinh doanh ngũ cốc và cho vay nặng lãi vào thời kì đói kém, nhanh chóng vươn lên trở thành một tiểu địa chủ có tiếng trong vùng. Một điểm tốt là dù đã trở nên giàu có, nhưng Mao Di Xương chỉ chung thủy với một bà vợ duy nhất là Văn Thất Muội, người đã chịu gả cho ông lúc nghèo khó. Với bà Văn, Mao Di Xương có ba người con: Mao Trạch Đông, con thứ Mao Trạch Dân (kém Mao Trạch Đông 3 tuổi) và con út Mao Trạch Đàm (kém Mao Trạch Đông tới 12 tuổi). Ngoài ra, ông ta cũng nhận nuôi một cô bé là Mao Trạch Hồng, trạc tuổi đứa con út.
Khi còn bé, Mao Trạch Đông cùng các em thường xuyên bị cha mắng phạt. Trong hồi ức của Mao, cha ông hiện lên như một người gia trưởng và nghiêm khắc đến quá đáng, thường đánh đập ông và các em vì những lỗi nhỏ nhặt nhất. Ngoài ra, sự tham lam của cha ông cũng khiến Mao Trạch Đông có ấn tượng không tốt với cha mình nói riêng và giới buôn bán nói chung.
Trái ngược với sự khắc nghiệt của chồng, mẹ của Mao Trạch Đông là một người đàn bà siêng năng, thấu cảm và tốt bụng. Khi còn bé, một trong những ấn tượng lớn nhất về mẹ đó là bà tuy không biết chữ nhưng rất sùng đạo. Cái tên đệm “Trạch” (có mang yếu tố nước) được đặt cho ông là vì một đạo sĩ được mời tới xem bói đã phán rằng ông thuộc mệnh khuyết thủy. Người ta còn kể rằng vì Mao Trạch Đông sinh ra vào giờ xấu, nên bà Văn đã nghe lời khuyên của một ni cô, thỉnh Quan Âm Bồ Tát về làm hộ mẫu thần cho ông. Dù vậy, có lẽ vị phật mẫu thần thực sự trong lòng Mao Trạch Đông lại chính là mẹ mình, khi bà thường xuyên bảo vệ anh em ông trước những trận đòn roi của người chagia trưởng.
Do sùng đạo mà bà Văn luôn muốn đứa con trai cả mình lớn lên sẽ tu nghiệp Phật tử. Suốt những năm tháng thơ ấu, Mao Trạch Đông thường xuyên được mẹ dẫn đi lên chùa làm lễ. Ban đầu, Mao Trạch Đông cũng rất ấn tượng với Phật giáo, đặc biệt là sau một lần ông thoát chết trong gang tấc khi bị hổ tấn công. Thế nhưng khi lớn lên, do có chí lớn mà ông cho rằng lối sống của nhà Phật không phù hợp với mình.
Như bao đứa trẻ khác vào thời điểm đó, khoảng 5, 6 tuổi, Mao Trạch Đông bắt đầu được gia đình giao cho phụ giúp việc đồng áng, chủ yếu là canh gia súc và chăn vịt. Lối sống thời thơ ấu đã ăn sâu vào tiềm thức Mao đến mức nhiều thói quen của ông được hình thành trong giai đoạn này sẽ được giữ mãi về sau. Chẳng hạn như ông sẽ không bao giờ quen với việc sử dụng bàn chải đánh răng, mà thay vào đó vẫn giữ thói quen súc miệng bằng trà như cách nông dân địa phương hay làm. Hoặc như việc ông thích tắm rửa bằng cách lau người hơn là bằng xà phòng và nước, một lần nữa phản ánh thói quen của địa phương khi ấy. Một dấu ấn là ẩm thực cay Hồ Nam đã khiến Mao trở thành một tín đồ của các món cay suốt đời.
Năm lên 8, Mao bắt đầu theo học tiểu học ở một ngôi trường làng truyền thống, dành phần lớn thời gian trên lớp đọc thuộc lòng các kinh điển của Nho gia. Dù có phần độc đoán và xa cách, nhưng Mao Di Xương vẫn luôn mong muốn các con của mình nên người. Ông cho rằng chỉ có bằng cách học đạo Thánh hiền thì mới có thể trở thành người thành công trong xã hội sau này. Do đó mà ông đã không tiếc tiền nhờ các thầy giáo kèm cặp cho con trai mình.
Thế nhưng chính sự cố gắng chăm chút cho con trai của Mao Di Xương lại sinh ra phản tác dụng. Khổng Giáo, thứ học thuyết lỗi thời khi ấy vẫn tuân theo cách dạy cổ lỗ sĩ dựa trên việc học thuộc lòng kinh sách, một cách học mà Mao Trạch Đông chán ghét. Vì chán ghét nên Mao Trạch Đông thường xuyên bỏ bê học hành và bị giáo viên “chăm sóc đặc biệt” bằng những trận đòn roi, chẳng khác gì việc cha làm với ông khi trước.

“Tôi đã ghét Khổng Tử từ năm 8 tuổi” - Mao Trạch Đông từng có lần chia sẻ.

Từ tâm lý ấy, Mao Trạch Đông quyết tâm học tập theo một hướng khác. Ông mải mê dùi mài những câu chuyện lịch sử, những tác phẩm văn học nhấn mạnh đến sự phá vỡ khuôn mẫu lỗi thời hoặc đấu tranh cho công lý. Tam Quốc Chí, Thủy hử, Tây Du Ký, Tùy Đường Diễn Nghĩa, Thuyết Nhạc toàn truyện... đều đã trở thành những cuốn sách gối đầu giường của ông.
Theo lời kể sau này của Mao Trạch Đông, chính tại thời điểm này, những gì đọc được đã truyền cho ông một niềm tin mãnh liệt vào việc “thay trời hành đạo”. Ông bắt đầu “thực hành” lối sống trượng nghĩa của mình bằng cách chia sẻ bữa trưa với một cậu bạn nghèo không đủ tiền mua thức ăn. Trong một lần khác, ông đánh nhau với một tên bắt nạt cùng lớp lớn tuổi hơn (và điều này khiến mẹ ông cực kì đau lòng vì bà là một người theo chủ trương “dĩ hòa vi quý” của nhà Phật). Trong một lần khác, khi giáo viên định đánh đòn Mao Trạch Đông thì ông đã tuyên bố bỏ học rồi đi vào trong rừng. Ông ở lì trong đó ba ngày, chỉ đến khi gia đình phải vào rừng tìm kiếm và thuyết phục thì mới chịu về.

2, Tuổi thiếu niên

Tuổi thơ dữ dội của Mao Trạch Đông cứ kéo dài như vậy đến năm ông 13 tuổi. Cảm thấy học hành như thế là đã đủ rồi, cha ông quyết định cho ông về nhà làm quen với nghiệp thương gia của gia đình. Ban đầu, quyết định này của cha khiến Mao Trạch Đông vô cùng vui sướng. Được thoát khỏi môi trường ngột ngạt đã giam giữ mình bao năm qua khiến ông trở nên hào hứng với công việc mới.
Tuy nhiên, niềm vui không kéo dài lâu khi các căng thẳng giữa ông và Mao Di Xương bắt đầu xuất hiện và dần leo thang. Lí do đầu tiên là bởi dù không còn đi học, nhưng ông vẫn tiếp tục đọc sách giải trí khi rảnh rỗi và thường thức tới khuya để làm việc này. Cha ông thì cho rằng đọc những thứ không thiết thực là lãng phí thời gian và tiền bạc nên đã cố gắng khiến ông từ bỏ thói quen này. Lí do thứ hai là Mao Trạch Đông không thích làm việc tay chân. Cha ông, vốn một người đi lên từ nông dân cho rằng đó là biểu hiện của sự lười nhác, ham hưởng thụ và rất phiền lòng về điều này. Lí do thứ ba và cũng quan trọng nhất, đó là quan điểm chính trị của ông không được lòng cha ông. Khi các cuộc khởi nghĩa nổ ra, Mao Trạch Đông đã công khai quan điểm ủng hộ các tổ chức này. Sau đó, khi cha ông bị những nạn dân chết đói - hậu quả của những cuộc khởi nghĩa kia cướp phá kho thóc, Mao tuyên bố hành động của những người này tuy có phần không đúng nhưng cũng phải thông cảm cho hoàn cảnh của họ (đến đây thì bạn hiểu vì sao cha của Mao Trạch Đông lại phát cáu với ông rồi đấy).
Để cho Mao Trạch Đông trưởng thành hơn, đầu năm 1908, cha ông quyết định sắp xếp một cuộc hôn nhân cho ông với La Nhất Tú - một cô gái hơn ông tới bốn tuổi. Dĩ nhiên là Mao Trạch Đông không muốn, nhưng ông cũng vẫn phải nghe theo sự sắp xếp của gia đình. Tuy vậy, sau khi tổ chức đám cưới, ông từ chối ngủ chung với vợ và bỏ nhà đến sống với Văn Vận Xương, một người anh em họ. Ở đó, ông tiếp tục đọc những tác phẩm lịch sử Trung Hoa như Sử ký của Tư Mã Thiên hay Hậu Hán thư của Ban Cố. Đồng thời, ông cũng được tiếp cận với những cuốn sách chính trị luận đương thời của các nhà cải cách và duy tân Trung Quốc nổi tiếng như Phùng Quế Phân, Trần Thiên Hoa. Mao cho rằng chính những cuốn sách này đã tạo nên ảnh hưởng to lớn đối tới tinh thần cách mạng trong tương lai của ông. Lý do là vì sau khi đọc chúng thì ông "cảm thấy chán nản về tương lai của đất nước mình và bắt đầu nhận ra rằng nhiệm vụ của tất cả mọi người là phải cứu lấy nó".

Một bức ảnh Mao Trạch Đông thời thiếu niên.

Hai năm sau, La Nhất Tú qua đời vì bệnh kiết lỵ. Mùa thu cùng năm, Mao Trạch Đông trở về xin cha cho phép ông theo học tại trường tiểu học Đông Sơn, cách Thiều Sơn 15 dặm. Ông chủ động xin đi học trở lại tại đó là bởi không giống như ở Thiều Sơn, cơ sở này dạy các môn hiện đại như khoa học tự nhiên. Thấy con trai thành tâm hối cải, Mao Di Xương rất vui mừng đồng ý.
Và thế là cậu bé Mao Trạch Đông mười sáu tuổi bắt đầu lên đường đến Đông Sơn cùng với Văn Vận Xương, người cũng đăng ký học ở đó. Ở đó, ông nhanh chóng kết bạn và trở nên thân thiết với Tiêu Tử Thăng và Tiêu San, con của một thầy giáo trong trường. Hai người bạn kể trên sau này sẽ tham gia cùng ông trong phong trào cộng sản và trở thành một trong những người viết tiểu sử đầu tiên của ông. Tuy nhiên, những người khác trong lớp thì thường xuyên cô lập và bắt nạt Mao Trạch Đông vì xuất thân nhà quê của ông.
Dù gặp nhiều khó khăn ở môi trường mới, nhưng Mao Trạch Đông vẫn thành công chứng tỏ thực lực của mình không hề thua kém ai. Ông được giáo viên quý mến nhờ sự chăm chỉ, khả năng nghị luận tốt và đặc biệt là đam mê đọc sách. Tại ngôi trường này, lần đầu tiên ông được học về địa lý và nâng cao kiến ​​thức về lịch sử Trung Quốc cổ đại. Ông cũng bắt đầu đọc về lịch sử nước ngoài, đặc biệt bị ảnh hưởng bởi cuốn sách có tựa đề Những anh hùng vĩ đại của thế giới, qua đó ông được truyền cảm hứng mãnh liệt bởi George Washington va Napoléon Bonaparte, những người nắm giữ khả năng lãnh đạo vượt trội và lòng nhiệt thành dân tộc của họ.

3, Những động thái cách mạng đầu tiên

Năm 1911, sau bảy, tám tháng học tại Đông Sơn, Mao Trạch Đông tiếp tục thuyết phục cha cho phép ông theo học trường trung học cơ sở ở Trường Sa. Lí do cho sự lựa chọn này của ông là bởi Trường Sa khi ấy là "một cái nôi cách mạng". Sự thù địch đối với chế độ quân chủ chuyên chế của Hoàng đế Phổ Nghi đang lan rộng trong quần chúng. Trong khi một số người ủng hộ việc chuyển đổi theo chủ nghĩa cải cách sang chế độ quân chủ lập hiến, hầu hết các nhà cách mạng đều ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa. Và người đứng đầu đằng sau phong trào cộng hòa này không ai khác chính là Tôn Trung Sơn, một người theo đạo Cơ đốc được đào tạo ở Mỹ, người lãnh đạo một hội kín được gọi là Trung Quốc Đồng minh Hội.
Tại Trường Sa, Mao Trạch Đông chịu ảnh hưởng của tờ báo của Tôn Trung Sơn là tờ Dân báo. Ông đã háo hức viết bài tiểu luận chính trị đầu tiên của mình và đem dán lên tường trường học. Sau này, Mao Trạch Đông thừa nhận rằng tiểu luận này "có phần lủng củng”. Đại khái, nó liên quan đến ý tưởng của ông về việc thành lập một nước cộng hòa do Tôn Trung Sơn làm tổng thống, nhưng với những nhượng bộ nhất định dành cho những người theo phái ôn hòa bằng cách để Khang Hữu Vi làm thủ tướng và Lương Khải Siêu làm bộ trưởng ngoại giao.
Vào tháng 5 năm 1911, một phong trào đã được phát động ở Trung Quốc để phản đối việc chính quyền nhà Thanh bán quyền đường sắt cho ngoại quốc. Nhân dịp này, Mao Trạch Đông và các bạn cùng lớp của ông đã tham gia nhiệt tình. Như một biểu tượng của sự nổi dậy chống lại Hoàng đế Mãn Châu, Mao Trạch Đông và một người bạn đã cắt bím tóc đuôi sam của mình, trước khi tuyên truyền vận động (và đôi khi là cưỡng chế) cắt bím tóc của một số bạn cùng lớp.
Tháng 10 năm 1911, được truyền động lực từ chủ nghĩa cộng hòa của Tôn Trung Sơn, quân đội đã nổi dậy chống lại hoàng đế trên khắp miền Nam Trung Quốc, dẫn tới Cách mạng Tân Hợi. Trường Sa ban đầu vẫn nằm dưới sự kiểm soát của chế độ quân chủ, với việc thống đốc ban bố thiết quân luật để dập tắt cuộc biểu tình. Khi lữ đoàn bộ binh bảo vệ thành phố đào tẩu theo cách mạng, thống đốc bỏ chạy, để lại thành phố vào tay quân cộng hòa. Ủng hộ cách mạng, Mao Trạch Đông gia nhập quân nổi dậy với tư cách là binh nhì, nhưng vì vài lí do mà ông không được tham gia chiến đấu.
Cuộc cách mạng dần tiến tới hồi kết khi Tôn Trung Sơn - được những người ủng hộ ông tuyên bố là "tổng thống lâm thời" - đã thỏa hiệp với tướng quân chủ Viên Thế Khải để tránh chiến tranh leo thang. Theo đó, chế độ quân chủ sẽ bị bãi bỏ, tạo ra Trung Hoa Dân Quốc, nhưng Viên Thế Khải sẽ trở thành tổng thống. Cách mạng Tân Hợi kết thúc, Mao Trạch Đông cũng thất vọng rời bỏ quân đội cộng hòa. Sáu tháng trong quân ngũ của ông cứ như một quãng thời gian trôi vào vô nghĩa. Cũng trong khoảng thời gian đầy chán chường này, từ một bài báo, ông vô tình khám phá ra thứ sẽ ảnh hưởng to lớn đến vận mệnh cuộc đời ông - chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, đó vẫn là chuyện của sau này, vì lúc này Mao Trạch Đông vẫn chưa xác định được con đường cách mạng cho mình. Ngoài chủ nghĩa cộng sản, ông cũng tiếp tục đọc thêm những tư tưởng khác như các tiểu luận của Giang Kháng Hổ, sinh viên sáng lập Đảng Xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, ông cảm thấy không bị thuyết phục bởi những tư tưởng này.

4, Tiếp tục con đường học vấn

Rời xa quân đội và quay trở lại con đường học vấn, Mao Trạch Đông lần lượt đăng ký vào một số học viện, nhưng sau đó lại quyết định thôi học ngay sau đó. Học cảnh sát, trường sản xuất xà phòng, trường luật và trường kinh tế… đều trở thành những trải nghiệm thoáng qua trong giai đoạn này của ông.
Sau một loạt trường kể trên, Mao Trạch Đông quyết định tới Trường Trung học Trường Sa do chính phủ lâm thời điều hành. Tuy nhiên, chỉ học được một thời gian thì ông cũng sớm rời đi vì nhận thấy cốt lõi của nó là tư tưởng Nho giáo - thứ ông cực kì bài xích. Từ đây, ông cũng quyết định trở thành một nhà nghiên cứu độc lập.
Thực hiện nghiên cứu của mình một cách độc lập, ông dành nhiều thời gian ở thư viện công cộng Trường Sa, đọc các tác phẩm cốt lõi của chủ nghĩa tự do cổ điển như Sự giàu có của các quốc gia của Adam Smith và Tinh thần của pháp luật của Montesquieu, cũng như các tác phẩm của các nhà khoa học và triết học phương Tây như Charles Darwin, JS Mill, Jean-Jacques Rousseau và Herbert Spencer. Tự coi mình là một trí thức, nhiều năm sau ông thừa nhận rằng vào thời điểm này ông nghĩ mình giỏi hơn đại đa số người khi ấy. Lấy cảm hứng từ tác phẩm của Friedrich Paulsen, Mao hình thành quan điểm rằng những cá nhân mạnh mẽ không bị ràng buộc bởi các quy tắc đạo đức mà nên phấn đấu vì những điều tốt đẹp hơn. Nói cách khác, ông tin mục đích là thứ biện minh cho phương tiện.
Sau một thời gian theo dõi việc học hành của Mao Trạch Đông, nhận thấy việc theo đuổi tri thức của con trai mình không có ích lợi gì cho công việc của gia đình, cha ông đã cắt tiền trợ cấp. Từ đây, Mao chính thức xa rời cuộc sống thoải mái bấy lâu. Với nguồn ngân quỹ eo hẹp, ông phải chuyển đến một xóm trọ dành cho người nghèo khổ.
Mong muốn trở thành giáo viên, năm 1912, Mao Trạch Đông đăng ký vào Trường Sư phạm thứ tư của Trường Sa, một trường cao đẳng đào tạo giáo viên có tiêu chuẩn cao nhưng học phí thấp và chỗ ở rẻ. Vài tháng sau, nó sáp nhập với Trường Sư phạm Đầu tiên ở Trường Sa, được nhiều người coi là trường học tốt nhất ở Hồ Nam đương thời. Tại đây, nhờ những đức tính tốt đẹp của mình mà Mao Trạch Đông đã được làm quen và kết thân với Giáo sư Đạo đức Dương Xương Tế, một trí thức có tinh thần cách mạng.

Dương Xương Tế - người vừa là thầy vừa là cha vợ Mao Trạch Đông.

Giáo sư Dương Xương Tế đã khuyến nghị Mao Trạch Đông đọc một tờ báo cấp tiến tên là Tân Thanh Niên, tác phẩm của Trần Độc Tú, Trưởng khoa Văn học tại Đại học Bắc Kinh và cũng là bạn giáo sư. Mặc dù là một người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, Trần Độc Tú cho rằng Trung Quốc phải nhìn về phương Tây, áp dụng "Ông Dân chủ và Ông Khoa học" để tự xóa bỏ mê tín và chuyên quyền. Những thông tin này nhìn chung rất hợp với tư tưởng của Mao Trạch Đông.
Trong năm học đầu tiên, Mao gặp lại Tiêu Tử Sinh, người bạn từng học cùng trường với ông ở Đông Sơn năm nào. Cả hai nhanh chóng đánh cặp với nhau trong nhiều cuộc chơi, từ những buổi dạo chơi quanh Hồ Nam cho tới viết những câu đối để kiếm tiền và thậm chí đôi lúc là cả hành nghề… khất thực. Năm 1915, Tiêu Tử Sinh tốt nghiệp, tuy nhiên cả hai vẫn giữ liên lạc đều đặn với nhau. Từ tháng 8 năm 1915 đến tháng 7 năm 1916, Tiêu Tử Sinh và Mao Trạch Đông đã trao đổi thư từ 13 lần, chủ yếu thảo luận về thế cuộc và các sự kiện lớn đương thời.
Là một sinh viên nổi tiếng, Mao Trạch Đông vẫn hoạt động chính trị trong trường học. Nhờ sự chuyên cần của mình mà năm 1915, ông được bầu làm thư ký của Hội sinh viên. Ông đã sử dụng chức vụ của mình để thành lập Hiệp hội Sinh viên Tự quản, dẫn đầu các cuộc biểu tình chống lại những nội quy bất hợp lý của trường. Vào mùa xuân năm 1917, ông được bầu làm chỉ huy đội quân tình nguyện của sinh viên, được thành lập để bảo vệ trường học khỏi sự cướp bóc của quân lính lãnh chúa và bọn cướp. Trong vai trò lãnh đạo, ông đã thể hiện sự sáng suốt của mình khi trang bị cho những đội quân này những giáo tre tạm thời và súng trường bằng gỗ để đe dọa kẻ thù. Hiệu trưởng đương thời Khổng Chiêu Thọ đã có lời nhận khen dành cho ông: "Tất cả giáo viên và học sinh trong trường đều nói: Mao Trạch Đông vô cùng dũng cảm".
Sau những thành công ấy, Mao Trạch Đông gày càng hứng thú với nghệ thuật chiến tranh, thường xuyên theo dõi những diễn biến mới nhất về Thế chiến thứ nhất. Cùng với đó, tinh thần cách mạng của ông cũng dần có sự biến chuyển. Ông bắt đầu phát triển tinh thần đoàn kết với người lao động thay vì chỉ nhắm tới đối tượng trí thức như trước kia. Để thể hiện tinh thần cách mạng, Mao Trạch Đông đã cùng với hai người đồng chí là Tiêu Tử Sinh và Thái Hòa Sâm thực hiện những kỳ tích về sức bền thể chất để làm gương cho mọi người. Sau này, Mao Trạch Đông có kể lại trong niềm tự hào rằng ông xem mình, Tiêu Tử Sinh và Thái Hòa Sâm khi ấy tựa như “Tam Anh” của Tam Quốc Diễn Nghĩa vậy.
Vào tháng 4 năm 1917, Mao Trạch Đông đăng bài viết đầu tiên của mình, "Nghiên cứu về văn hóa thể chất", trên tờ Tân Thanh Niên. Bài viết hướng dẫn độc giả tăng cường thể lực để phục vụ cách mạng. Sau đó, ông gia nhập Hiệp hội Nghiên cứu Vương Phu Chi, một nhóm cách mạng được thành lập bởi giới văn nhân Trường Sa, những người mong muốn noi gương Vương Phu Chi, một biểu tượng lịch sử cho cuộc kháng chiến của người Hán trước cuộc xâm lược của Mãn Châu. Cũng trong khoảng thời gian này, nhờ sự nổi tiếng của mình trong giới sinh viên mà ông đã thiết lập thành công quy tắc “ba điều không nên nói” trong trường: thứ nhất không nói chuyện tiền bạc, thứ hai không nói chuyện nam nữ, thứ ba không nói chuyện gia đình tầm thường.
Vào tháng 4 năm 1918, cùng với những nhà cách mạng trẻ khác, nhóm “Tam Anh” thành lập tổ chức của riêng mình, lấy tên là Tân Dân Hội. Mục tiêu của hội này tóm gọn trong một khẩu hiệu duy nhất: "đổi mới học thuật, rèn luyện ý thức và nâng cao đạo đức của mọi người". Với mong muốn cách mạng hóa xã hội, Hội đã thu hút được từ 70 đến 80 thành viên, trong đó có một số phụ nữ, nhiều người trong số họ sẽ gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc sau này.
Vào tháng 6 năm 1919, Mao Trạch Đông chính thức tốt nghiệp. Thành tích của ông thuộc dạng cực kì xuất sắc, thuộc top 3 sinh viên tốt nghiệp xuất sắc nhất trong năm đó. Như vậy là kết thúc quãng thời gian 5 năm Mao Trạch Đông theo học tại Đại học Sư phạm số 1 tỉnh Hồ Nam.

5, Chính thức bước chân vào giới cách mạng

Sau khi tốt nghiệp, ngày 15 tháng 8 năm 1918, Mao Trạch Đông rời Trường Sa đến Bắc Kinh, nơi thầy ông là Dương Xương Tế được thuyên chuyển công tác tới. Sau khoảng 1 tháng, thầy Dương đã giới thiệu ông đảm nhận vị trí trợ lý cho thủ thư trường đại học Lý Đại Chiêu, người sau này sẽ trở thành một trong những Đảng viên Cộng sản Trung Quốc thời kỳ đầu. Sự tác động của ông Lý có lẽ đã phần nào ảnh hưởng tới con đường cách mạng sau này của Mao Trạch Đông. Do tính chất công việc, ông thường được Lý Đại Chiêu giao cho đọc các tài liệu về chủ nghĩa Marx. Đồng thời, thi thoảng ông cũng phải tham gia các cuộc thảo luận sinh viên do ông Lý tổ chức. Những cuộc thảo luận này bàn về nhiều xu hướng tư tưởng mới của thế giới và Trung Quốc, cung cấp cho Mao Trạch Đông thêm nhiều góc nhìn mới từ vi mô đến vĩ mô. Cũng trong khoảng thời gian này, Mao Trạch Đông và con gái của thầy Dương là Dương Khai Tuệ đã trở thành bạn thân và dần nảy sinh tình cảm với nhau.
Trở nên "ngày càng cấp tiến", Mao Trạch Đông ban đầu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chủ nghĩa vô chính phủ của Peter Kropotkin, học thuyết cấp tiến nổi bật nhất thời đó. Những người theo chủ nghĩa vô chính phủ Trung Quốc, chẳng hạn như Thái Nguyên Bồi, Hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh, kêu gọi một cuộc cách mạng xã hội toàn diện trong các mối quan hệ xã hội, cơ cấu gia đình và sự bình đẳng của phụ nữ, thay vì sự thay đổi đơn giản trong hình thức chính phủ như các nhà cách mạng trước đó. Mao Trạch Đông tỏ ra rất ấn tượng với những lời kêu gọi này. Khi một số bạn bè của ông đã tham gia dự án Mouvement Travail-Études do phe vô chính phủ tổ chức để sang Pháp du học, Mao Trạch Đông ban đầu muốn tham gia nhưng do tiếng Pháp không tốt nên đã từ chối. Tuy vậy, để ủng hộ, ông đã tích cực cổ động gây quỹ cho dự án.
Ngày 25 tháng 1 năm 1919, Hội Nghiên cứu Triết học Đại học Bắc Kinh được thành lập, Mao Trạch Đông tới dự thính các khóa học tại Đại học Bắc Kinh. Tới ngày 19 tháng 2, Mao Trạch Đông lại tham dự thêm cuộc họp tái tổ chức Hội Nghiên cứu Báo chí Đại học Bắc Kinh. Sau đó, ông tiếp cận được với Thiệu Phiêu Bình, chủ tịch tờ Tin tức Bắc Kinh, tại khóa học "Lý thuyết và thực hành báo chí" do người này chủ trì. Sau đó, ông đã đến thăm ông Thiệu nhiều lần và nhận được sự hỗ trợ tài chính tương đối đáng kể.

Một bức ảnh chân dung Mao Trạch Đông được chụp ảnh vào năm 1919.

Vào ngày 12 tháng 3, nhận được tin mẹ đổ bệnh nặng, Mao Trạch Đông rời Bắc Kinh để trở về Hồ Nam. Tuy nhiên, trên đường, ông quyết định đổi hướng tới Thượng Hải để tiễn những du học sinh của hội vô chính phủ đang chuẩn bị lên tàu sang Pháp. Dọc đường, ông bị kẻ gian trộm mất sạch tiền nhưng may mắn đã có người bỏ tiền giúp đỡ ông tới nơi kịp lúc. Ngày 15 tháng 3, Mao Trạch Đông tham dự bữa tiệc chia tay sinh viên du học Pháp do Hiệp hội sinh viên Trung Quốc toàn cầu tổ chức tại Thượng Hải.
Sau khi tiễn các bạn lên đường tìm đường cứu nước, ngày 6 tháng 4, Mao Trạch Đông từ Thượng Hải trở về Trường Sa thăm mẹ. Đó chỉ là một cuộc gặp ngắn ngủi, nhưng ông đã đích thân phục vụ và nấu cho bà một ít thuốc sắc. Sau đó, ông tới gặp mặt trực tiếp các thành viên cốt cán của Tân Dân Hội tại Hồ Nam để chủ trì công việc. Nhằm giải quyết vấn đề tiền bạc trong cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng tại đây, Mao Trạch Đông xin vào làm việc trường Tiểu học Trường Sa. Tại đây, ông phụ trách dạy các lớp lịch sử. Ngoài giờ làm việc ông, ông cũng tranh thủ cùng Tân Dân Hội bắt liên hệ với giới báo chí và các sinh viên trẻ có tinh thần cách mạng trong vùng.

6. Phong trào Ngũ Tứ

Vào ngày 4 tháng 5 năm 1919, phong trào Ngũ Tứ bùng nổ tại Bắc Kinh, gây chấn động toàn Trung Quốc. Tin tức về phong trào lan đến Hồ Nam, Mao Trạch Đông lập tức liên lạc với các thành viên của Tân Dân Hội, học sinh chủ chốt của các trường, đại diện báo chí và giới giáo dục để trao đổi quan điểm và đề xuất đề xuất phát động phong trào yêu nước ở Hồ Nam; Vào giữa tháng 5, Liên đoàn Sinh viên Bắc Kinh cử Đặng Trung Hạ đến Hồ Nam để giới thiệu tình hình phong trào sinh viên Bắc Kinh với Mao Trạch Đông và những người khác, đồng thời thảo luận về việc khôi phục và tổ chức lại của Liên đoàn Sinh viên Hồ Nam ban đầu.
Ngày 28 tháng 5, Liên đoàn sinh viên Hồ Nam mới được thành lập dưới sự lãnh đạo Bành Hoàng, một thành viên của Tân Dân Hội và được cố vấn bởi chính Mao Trạch Đông. Một cuộc biểu tình quy mô lớn của sinh viên Hồ Nam sau đó nổ ra. Tạp chí cấp tiến hàng tuần phục vụ phong trào, Tương Giang Tạp chí cũng được Mao Trạch Đông ra mắt. Trong tạp chí, ông viết nhiều bài viết ủng hộ sự cần thiết của một "Đại liên hiệp quần chúng nhân dân" và củng cố các công đoàn có khả năng tiến hành cách mạng bất bạo động. Tất nhiên, ý tưởng này của Mao Trạch Đông khi ấy không thực sự liên quan gì tới chủ nghĩa Marx, mà là từ khái niệm tương trợ của Kropotkin. Dù vậy, ý tưởng của ông và chủ nghĩa Marx mà ông theo sau này vẫn có những sự tương đồng nhất định, tạo tiền đề cho sự chuyển đổi trong tư tưởng về sau này.
Vào mùa thu năm 1919, Mao Trạch Đông tổ chức một hội thảo tại Trường Sa nghiên cứu các vấn đề kinh tế và chính trị, cũng như các cách thức đoàn kết nhân dân, tính khả thi của chủ nghĩa xã hội và các vấn đề liên quan đến Nho giáo. Trong thời kỳ này, ông tham gia vào công tác chính trị với những người lao động chân tay, thành lập các trường học ban đêm và công đoàn. Tới tháng 12 năm 1919, Mao giúp tổ chức một cuộc tổng đình công ở Hồ Nam và đạt được một số yêu sách, nhưng Mao Trạch Đông và các thủ lĩnh sinh viên khác cảm thấy bị Thống đốc Hồ Nam là Trương Kính Nghiêu đe dọa tới tính mạng. Mao Trạch Đông sau đó trở về Bắc Kinh tạm lánh. Tranh thủ dịp này, ông cũng tới thăm thầy Dương Xương Tế, lúc đó đang bị bệnh nan y.
Trong thời gian tạm lánh, các bài báo của Mao Trạch Đông dần thu được kết quả khả quan. Hầu hết trong số chúng đều đã đạt được mức độ nổi tiếng trong phong trào cách mạng, và Mao Trạch Đông quyết định bắt đầu kêu gọi ủng hộ việc lật đổ Thống đốc Trương.
Tuy bị cấm đoán gắt gao, nhưng Mao Trạch Đông và hội nhóm của mình vẫn hoạt động một cách tích cực. Ngày 18 tháng 6 năm 1920, Mao Trạch Đông đăng bài Quyền tự quyết của người Hồ Nam trên tờ Thời sự tân báo của Thượng Hải. Trong đó, ông có viết: “Sự suy đồi của xã hội và sự suy đồi của dân tộc không thể được làm sáng tỏ cũng như loại bỏ, trừ khi chúng bị nhổ tận gốc rễ bằng những nỗ lực to lớn. Loại trách nhiệm này là trách nhiệm của người dân cả nước chứ không phải trách nhiệm của một số quan chức, chính trị gia, quân nhân... Vận mệnh Hồ Nam phải do toàn thể người dân Hồ Nam quyết định". Ngày 3 tháng 9 cùng năm, Mao Trạch Đông lại tiếp tục đăng bài "Các vấn đề cơ bản của các vấn đề xây dựng Hồ Nam - Cộng hòa Hồ Nam" trong chuyên mục "Các vấn đề xây dựng Hồ Nam" mới trên tờ "Đại Công Báo" của Trường Sa. Trong bài báo, ông nêu lên quan điểm của mình: "Còn Trung Quốc thì sao? Nó cũng đã thức tỉnh (ngoại trừ các chính trị gia, quan chức và quân phiệt). Kinh nghiệm 9 năm cộng hòa giả tạo và các cuộc đại chiến đã buộc người dân phải thức tỉnh và nhận ra rằng công cuộc xây dựng đất nước nói chung là hoàn toàn vô vọng trong khoảng thời gian này, cách tốt nhất đơn giản là không quy hoạch xây dựng tổng thể mà phải chia nhỏ quy hoạch xây dựng từng tỉnh, thực hiện “quyền tự quyết của người dân mỗi tỉnh”. Các khu hành chính đặc biệt và hai thái ấp, tổng cộng có hai mươi bảy địa điểm, tốt nhất nên chia thành hai mươi bảy quốc gia.”
Mao sau đó đến thăm Thiên Tân, Tế Nam và Khúc Phụ, trước khi chuyển đến Thượng Hải, nơi ông làm thợ giặt và gặp Trần Độc Tú. Sau này, mỗi khi nhớ lại quãng thời gian quý báu ấy, Mao Trạch Đông vẫn luôn ca ngợi việc ông Trần áp dụng chủ nghĩa Marx đã gây ấn tượng sâu sắc với mình". Cũng tại Thượng Hải, Mao Trạch Đông gặp lại người thầy cũ của mình, Dịch Bồi Cơ, lúc ấy đã là một nhà cách mạng có tiếng tăm và là thành viên của Đảng Quốc dân Trung Quốc. Khi đó, đảng đang ngày càng nhận được sự ủng hộ và ảnh hưởng. Nhờ quan hệ tốt với thầy, Mao Trạch Đông đã dược họ Dịch giới thiệu với Tướng Đàm Diên Khải, một thành viên cấp cao của Quốc Dân Đảng, người có được lòng trung thành của lực lượng quân đội đang đóng dọc biên giới Hồ Nam với Quảng Đông. Tướng Đàm khi ấy đang có kế hoạch lật đổ Thống đốc Trương. Chí lớn gặp nhau, Mao Trạch Đông đã hỗ trợ tướng Đàm không thể nhiệt tình hơn nữa bằng cách tổ chức các sinh viên Trường Sa tham gia cuộc nổi dậy. Tháng 6 năm 1920, tướng Đàm dẫn quân vào Trường Sa, buộc Thống đốc Trương phải bỏ chạy. Trong cuộc tái tổ chức chính quyền tỉnh sau đó, nhờ có những đóng góp to lớn của mình mà Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng khối cơ sở của Trường Sư phạm Đầu tiên. Bây giờ nhận được một khoản thu nhập lớn, ông lập tức kết hôn với Dương Khai Tuệ vào mùa đông năm 1920.

7. Bước ngoặt trên con đường chính trị

Cuối năm 1920, bước ngoặt trên con đường cách mạng của Mao Trạch Đông đã đến. Trước đó, trong quãng thời gian đi lại giữa các tỉnh, ông đã tình cờ đọc được tác phẩm văn học Marxist mới nhất được dịch sang tiếng Trung - đặc biệt là Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bản nguyên nghĩa. Những tác phẩm ấy đã khiến ông ngày càng chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa cộng dản. Nhưng do duy trì quan điểm chiết trung nên Mao Trạch Đông vẫn chưa thực sự ngả hẳn về phía quốc tế cộng sản. Dù vậy, theo xu thế xã hội bấy giờ, ông vẫn tham gia thành lập Nhóm Cộng sản Trường Sa và Đoàn Thanh niên Xã hội Chủ nghĩa Trường Sa.
Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập bởi Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu tại Tô giới Pháp Thượng Hải vào đầu năm 1921 với tư cách là một hiệp hội nghiên cứu và mạng lưới chính trị không chính thức. Mao Trạch Đông cũng được Trần Độc Tú giao cho nhiệm vụ thành lập chi nhánh Trường Sa, đồng thời thành lập chi nhánh Đoàn Thanh niên Xã hội chủ nghĩa và Hội Sách Văn hóa, mở hiệu sách tuyên truyền văn học cách mạng khắp Hồ Nam. Trong lúc thực hiện nhiệm vụ được giao phó, ông vẫn tích cực tham gia vào phong trào đòi quyền tự trị cho Hồ Nam, với hy vọng rằng hiến pháp Hồ Nam sẽ tăng cường quyền tự do dân sự và làm cho hoạt động cách mạng của ông trở nên dễ dàng hơn nữa.
Ngày 23 tháng 7 cùng năm, Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ chức với 13 đại biểu tham dự, Mao Trạch Đông vinh dự có mặt trong cuộc họp với tư cách là đại diện Trường Sa và chịu trách nhiệm ghi chép lại nội dung cuộc họp. Người ta kể lại rằng, cuộc họp đã phải di dời địa điểm khi diễn ra dở chừng do sự khám xét của cảnh sát, nhưng suốt quá trình ấy Mao Trạch Đông vẫn cần mẫn ghi chép mà không bỏ sót chi tiết quan trọng nào. Sau cuộc họp, Mao Trạch Đông lần lượt giữ chức Bí thư Quận ủy Hồ Nam của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giám đốc Chi bộ Hồ Nam của Ban Bí thư Liên hợp Lao động Trung Quốc, và Tổng Giám đốc Liên đoàn Công đoàn tỉnh Hồ Nam.
Công việc của Mao Trạch Đông trong vai trò một lãnh đạo cộng sản thời điểm ban đầu tập trung vào phổ cập kiến thức cách mạng cho quần chúng. Vào tháng 8 năm 1921, ông thành lập Đại học Tự học, qua đó độc giả có thể tiếp cận với văn học cách mạng, đặt trong khuôn viên của Hiệp hội Nghiên cứu Vương Phu Chi. Ông cũng khuyến khích mọi người tham gia Phong trào Giáo dục Đại chúng do nước ngoài hỗ trợ để chống nạn mù chữ, mặc dù bản thân ông đã biên tập sách giáo khoa để đưa vào những quan điểm cấp tiến phù hợp với đường lối cách mạng hơn.
Ngoài khuyến học, Mao Trạch Đông vẫn tiếp tục tổ chức các cuộc đình công chống lại chính quyền hà khắc của Thống đốc Hồ Nam đương nhiệm là Triệu Hằng Thích. Theo ghi nhận từ nhiều nguồn tư liệu, Mao Trạch Đông khi ấy không chỉ huy động thợ mỏ ở mỏ An Viễn đình công mà còn thành lập trường học, hợp tác xã và thu hút trí thức địa phương, quý tộc, sĩ quan quân đội, thương gia, dân giang hồ rồi thậm chí cả giáo sĩ nhà thờ tham gia cùng. Sự thành công trong tổ chức chính trị của Mao ở mỏ An Viễn dẫn đến việc Trần Độc Tú mời ông trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản sau này.
Tuy nhiên, khi Đại hội lần thứ hai của Đảng Cộng sản ở Thượng Hải vào tháng 7 năm 1922 diễn ra, Mao Trạch Đông lại không tham gia. Theo tuyên bố của Mao Trạch Đông, ông không tới vì… để lạc mất địa chỉ. Dù vậy, sự vắng mặt của ông không quá ảnh hưởng tới vị trí của ông vì ngay sau cuộc họp, ông đã được giao cho một trọng trách quan trọng: trở thành một trong những đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt tay hợp tác với Quốc dân Đảng Trung Quốc.

9. Hợp tác với Quốc dân Đảng

Áp dụng lời khuyên của Lenin, các đại biểu của Đại hội lần thứ hai của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thống nhất chủ trương liên minh với "các nhà dân chủ tư sản" của Quốc Dân Đảng vì lợi ích của "cách mạng dân tộc". Các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc nổi bật nhất được giao nhiệm vụ gia nhập Quốc Dân Đảng với hy vọng thúc đẩy và định hướng nền chính trị của đảng này sang cánh tả. Mao nhiệt tình đồng ý với quyết định này, lập luận về một liên minh giữa các tầng lớp kinh tế xã hội của Trung Quốc, và cuối cùng trở thành người đứng đầu tuyên truyền của Quốc Dân Đảng.
Ngoài tuân theo chỉ thị hợp tác của Quốc tế Cộng sản, một trong những mục tiêu của Mao Trạch Đông khi tham gia vào các hoạt động của Quốc dân Đảng, đó là gây dựng sức ảnh hưởng nhằm hỗ trợ Tôn Trung Sơn, người mà ông cho rằng có thể làm nên đại nghiệp, tổ chức lại Quốc dân đảng Trung Quốc. Tháng 9 năm 1922, Mao Trạch Đông gia nhập Quốc dân đảng Trung Quốc và giữ vai trò thành viên cốt cán cho đến khi "Sự kiện 15 tháng 7" nổ ra vào năm 1927. Hồ Hán Dân và Vương Tinh Vệ sau đó từng tiến cử Mao Trạch Đông cho Tôn Trung Sơn. Nhờ vào tài năng lãnh đạo thiên bẩm của mình, Mao Trạch Đông sau đó thăng tiến một cách thuận buồm xuôi gió, được bầu làm ủy viên điều hành dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất và lần thứ hai của Quốc dân đảng.
Tháng 6 năm 1923, Mao Trạch Đông tới Quảng Châu dự Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng Cộng sản Trung Quốc và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tháng 2 năm 1924, tại Đại hội Quốc dân đảng lần thứ nhất tổ chức ở Quảng Châu đầu năm 1924, Mao được bầu làm Bí thư Ban Tổ chức Ban Chấp hành Thượng Hải Quốc dân đảng Trung Quốc và đưa ra bốn nghị quyết phân cấp quyền lực cho các cơ quan thành thị và nông thôn. Như vậy là trong giai đoạn này, Mao Trạch Đông đã giữ các chức vụ quan trọng trong cả hai đảng Cộng sản và Quốc dân. Cũng vì lí do này mà Ma Trạch Đông đã bị một số thành viên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc quan ngại, đặc biệt là nhà cách mạng lão thành Lý Lập Tâm. Như một cách để chứng minh cho sự trong sạch của mình, Mao Trạch Đông vẫn duy trì đóng góp tích cực cho cả hai đảng này. Tới tháng 12 cùng năm, do làm việc quá sức, Mao Trạch Đông lâm bệnh và phải trở về Hồ Nam để tĩnh dưỡng.
Trong thời gian tĩnh dưỡng, Mao Trạch Đông nhận thấy giai cấp nông dân đang ngày càng bất bình và một số đã chiếm đoạt đất đai của các địa chủ giàu có để thành lập công xã. Điều này đã thuyết phục ông về tiềm năng cách mạng của giai cấp nông dân. Có một sự thật thú vị đó là ý tưởng tận dụng sức mạnh của giai cấp nông dân lại được những người cánh tả Quốc dân đảng ủng hộ chứ không phải những người Cộng sản đương thời. Vào mùa đông năm 1925, Mao trốn sang Quảng Châu sau khi các hoạt động cách mạng của ông thu hút sự chú ý của chính quyền quân phiệt Hồ Nam. Tại đây, ông điều hành Học viện Huấn luyện Phong trào Nông dân của Quốc dân đảng khóa thứ 6 từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1926. Học viện dưới thời Mao đã đào tạo ra một lượng lớn cán bộ có năng lực, đóng góp không nhỏ những chiến dịch về sau.
Khi lãnh đạo đảng Tôn Trung Sơn qua đời vào tháng 3 năm 1925, vai trò lãnh đạo Quốc dân Đảng được giao cho Tưởng Giới Thạch. Chỉ hai tháng sau khi nắm quyền, Tưởng Giới Thạch đã cắt giảm đáng kể quyền lực của những thành phần cánh tả trong Quốc Dân Đảng và hạn chế sức ảnh hưởng của những đồng minh Cộng sản. Dù thế, Mao Trạch Đông vẫn ủng hộ Quân đội Cách mạng Quốc gia của Tưởng Giới Thạch.
Sau Phong trào 30 tháng 5 năm 1925, Mao Trạch Đông và những người khác lấy khẩu hiệu “Đả đảo ngoại bang, rửa sạch quốc nhục” làm khẩu hiệu, lấy các hợp tác xã nông nghiệp bí mật làm nòng cốt tại hơn 20 ngôi làng ở Thiệu Sơn như một thí điểm cơ bản cho phương pháp cách mạng dân tộc. Vào giữa tháng 6, Mao Trạch Đông và những người khác đã thành lập chi bộ Thiệu Sơn của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 28 tháng 8 cùng năm, Thống đốc Hồ Nam là Triệu Hằng Thích ra lệnh cho Cục Phòng vệ Đoàn Thanh niên huyện Tương Đàm truy bắt Mao Trạch Đông nhưng Mao Trạch Đông đã trốn thoát được. Tới tháng 9, Uông Tinh Vệ, Chủ tịch Chính phủ Quốc gia, do bận công việc chính phủ và không thể giữ chức Bộ trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương của Quốc dân đảng Trung Quốc nên đã tiến cử Mao Trạch Đông làm Quyền Bộ trưởng Tuyên truyền vào ngày 5 tháng 10.
Ngày 28 tháng 1 năm 1926, Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch lần đầu tiên tiếp xúc trực tiếp tại Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Quốc dân đảng. Mao Trạch Đông báo cáo nghị quyết của Ủy ban xét duyệt tuyên truyền và được bầu làm Ủy viên chấp hành dự khuyết Trung ương còn Tưởng đưa ra đề xuất cải thiện đời sống kinh tế của binh lính và được bầu làm Ủy viên Chấp hành Trung ương. Ngày 19 tháng 3 cùng năm, Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm giám đốc Hội thảo Phong trào Nông dân Quốc dân Đảng lần thứ sáu. Trong nhiệm kỳ của mình, Mao Trạch Đông đã đào tạo một số lượng lớn trụ cột của phong trào nông dân cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 25 tháng 5 cùng năm, Mao Trạch Đông từ chức Quyền Bộ trưởng Tuyên truyền do chấn chỉnh công tác đảng.
Tháng 7 năm 1926, chiến dịch Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động chính thức bắt đầu. Cùng với đó, các cuộc bạo động của tầng lớp nông dân theo lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng bùng nổ tại nhiều nơi. Tuy nhiều cuộc bạo động của nông dân đã hỗ trợ cho công cuộc Bắc phạt của Quốc dân Đảng, nhưng cũng có trường hợp những cuộc bạo động này diễn ra theo chiều hướng tiêu cực khi nhiều địa chủ đã bị tàn sát dã man cũng như gây ra nhiều thiệt hại vật chất không đáng có. Những cuộc bạo động như vậy đã khiến một số nhân vật cấp cao của Quốc dân Đảng, những người vốn là địa, tức giận và gây ra sự bất hòa sâu sắc giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hệ quả là sự chia rẽ giai cấp và ý thức hệ ngày càng tăng trong phong trào cách mạng, báo hiệu một cuộc nội chiến sắp sửa đến gần.

Tiểu kết

Trên đây là toàn bộ nội dung phần đầu tiên của bài viết Mao Trạch Đông - Mặt trời đỏ trong lòng người dân Trung Quốc. Nếu cảm thấy bài viết này hay thì hãy cho mình xin một upvote nhé. Ngoài ra, nếu có điểm nào bạn thấy chưa hợp lí hoặc muốn thảo luận thêm thì để lại cmt dưới phần bình luận nha, mình sẽ cố hết sức để giải đáp trong phạm vi hiểu biết của mình. Hẹn gặp lại các bạn trong phần tiếp theo nhé!

#Backturn

Tuesday, April 30, 2024

Mục đích, khoa học và sự thật về Giấc Ngủ
Trung bình, một người thường dành ra một phần ba cuộc đời mình cho giấc ngủ.
Giả sử, ta sống được tới lúc 75 tuổi, tương đương với số thời gian ngủ là 25 năm, tức 9.125 ngày.¹ Vậy, ta sẽ có đến 219.000 giờ chìm trong giấc ngủ. Với từng ấy thời gian, bạn đã có thể xem bộ phim Forrest Gump tận 92.405 lần trong đời.
Có lẽ phần lớn mọi người đều có chung một thắc mắc, tại sao con người chúng ta cần phải ngủ? Mục đích thật sự của giấc ngủ là gì? Và vì sao có một giấc ngủ ngon lại quan trọng đến vậy? Linh sẽ giải đáp tất cả những câu hỏi trên thông qua bài viết này.

Giấc ngủ thật sự là gì?

Vào năm 1606, William Shakespeare, văn hào vĩ đại của nhân loại, đã quan sát và nhận ra được vai trò cụ thể của giấc ngủ. Ông viết:
“Hỡi giấc ngủ thơ ngây. Giấc ngủ xoa dịu mọi lo lắng của ta. Giấc ngủ dẫn lối thường nhật vào ngơi nghỉ. Giấc ngủ giúp sức người lao động mệt mỏi và chữa lành những tâm trí tổn thương. Giấc ngủ, món chính trong bữa tiệc cuộc đời, và là món bổ dưỡng nhất.”—William Shakespeare, Macbeth
Vậy giấc ngủ là gì? Ngủ xảy ra khi cơ thể và tâm trí con người chìm vào trạng thái vô thức, tự phục hồi. Thoạt nhìn thì việc ngủ có vẻ đơn giản. Thế nhưng giấc ngủ vẫn còn là một bí ẩn phức tạp mà khoa học vẫn chưa lý giải hết được.

Điều kỳ diệu của một giấc ngủ ngon

Nhìn chung, một giấc ngủ ngon thường được xác định bởi chu kỳ giấc ngủ (sleep cycle). Trong một chu kỳ giấc ngủ sẽ có những giai đoạn ngủ (sleep stages) khác nhau, được đo lường bằng các loại sóng não do ta tạo ra. Hầu hết mọi người đều trải qua khoảng 4 đến 6 chu kỳ giấc ngủ mỗi đêm.²


Trong đó, có hai giai đoạn ngủ đem lại những lợi ích đặc biệt:

1. Giai đoạn ngủ sâu (Deep Sleep) 2. Giai đoạn ngủ REM (Rapid Eye Movement Sleep)

Giai đoạn ngủ sâu, hay còn gọi là giấc ngủ sóng chậm (slow-wave sleep). Đây là giai đoạn ta ngủ sâu nhất và khó bị đánh thức nhất. Ở giai đoạn ngủ sâu—cơ thể sẽ bắt đầu sửa chữa cơ bắp và tái tạo các mô, xây dựng xương, đồng thời tăng cường hệ thống miễn dịch nhằm chống lại các nguy cơ lây nhiễm. Lúc này, não ít phản ứng hơn với kích thích bên ngoài, huyết áp giảm, cơ bắp dừng hoạt động, nhịp thở chậm và đều đặn hơn. Giai đoạn ngủ sâu là vũ khí bí mật cho những ai cần khả năng vận động mạnh, như việc tập luyện thể chất, hay nếu bạn là một vận động viên thể thao chuyên nghiệp.
Theo một kết quả nghiên cứu với 175 vận động viên ưu tú thuộc các bộ môn khác nhau cho thấy, các vận động viên cần đến 8.3 giờ ngủ mỗi đêm để có thể cảm thấy được nghỉ ngơi.³
Nhưng sự thật là, tuyển thủ có tầm đòi hỏi một giấc ngủ có tâm. Usain Bolt, người được mệnh danh là vận động viên điền kinh xuất sắc nhất mọi thời đại, anh ấy ưu tiên việc ngủ từ 8 đến 10 tiếng mỗi đêm. Roger Federer, ông vua quần vợt thậm chí còn đảm bảo mình phải ngủ 12 tiếng mỗi ngày.
Giai đoạn ngủ REM, là viết tắt cho giai đoạn ngủ chuyển động mắt nhanh (rapid eye movement) vì lúc này mắt ta di chuyển nhanh, qua lại liên tục. Đây cũng là lúc những giấc mơ thú vị diễn ra, do não bộ bắt đầu hoạt động rất tích cực. Về mặt thể chất, cơ bắp được thư giãn hoàn toàn, nhưng nhịp thở trở nên nhanh và không đều, huyết áp cũng tăng lên. Ở giai đoạn ngủ REM, não sẽ tiến hành xử lý những thông tin có được trong 24 giờ vừa qua—đưa những ký ức quan trọng vào bộ nhớ dài hạn, quyết định xem cần loại bỏ thông tin nào, và liên kết trải nghiệm mới với những trải nghiệm trước đó. Vì vậy, giai đoạn ngủ REM đặc biệt quan trọng đối với việc học tập, trí nhớ, khả năng tập trung cũng như tâm trạng (mood) vào ban ngày.
Đây chính là những gì bạn có được từ một giấc ngủ ngon.
Giai đoạn ngủ REM củng cố trí nhớ dài hạn cũng như trí tuệ cảm xúc; trong khi giai đoạn ngủ sâu là chìa khóa để phục hồi sức khỏe thể chất. Cả hai đều có ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống và khả năng giải quyết vấn đề.⁴

Tại sao con người cần phải ngủ?

Trong khi người Hy Lạp cổ đại coi giấc ngủ là cánh cửa đến gần hơi với thần thánh, khoa học lại coi việc ngủ là hành động mời gọi những kẻ săn mồi về đêm. Song, nghiên cứu gần đây cho thấy—ngủ không đơn giản chỉ là nghỉ ngơi, mà còn là nghi thức tối cao giúp duy trì sức khỏe não bộ.
Mỗi ngày, khi thực hiện các hoạt động thần kinh, não của ta sẽ tích tụ các chất thải chuyển hóa (metabolic waste). Dù điều này hoàn toàn bình thường, việc não bộ tích lũy quá nhiều chất thải lại là nguyên nhân dẫn tới những bệnh rối loạn thần kinh và mất trí nhớ như Alzheimer, hay bệnh Parkinson. Do đó, “Ta phải ngủ vì não bộ có một hệ thống làm sạch vĩ mô giúp loại bỏ các chất thải độc hại ra khỏi não.”⁵ —được gọi là Hệ thống Glymphatic (Glymphatic System)
Phần lớn hoạt động của hệ thống glymphatic xảy ra ở giai đoạn ngủ sâu. Nó giống như một cái máy rửa chén tự động: Não ta lập tức bật nó lên chỉ sau vài phút chìm vào giấc ngủ. Và quá trình này xảy ra một cách cực kỳ phi thường:
Trong khi ngủ, các tế bào não co rút lại tới 60 phần trăm, cho phép hệ thống glymphatic thực hiện nhiệm vụ hiệu quả và dễ dàng hơn. Lúc này, dòng dịch não tủy tràn vào não, đẩy mọi chất thải độc hại giữa các tế bào não, ra ngoài. Phân tích thực tế cho thấy, quá trình đào thải trong lúc ngủ được tăng cường mạnh mẽ hơn gấp hai lần so với khi thức giấc.⁶
Kết quả là, não bộ được thanh lọc, bạn mở mắt đón ánh mặt trời với một tâm trí tinh tường cùng một tinh thần sảng khoái.

Mục đích của giấc ngủ

Chúng ta theo bản năng, đều ngầm biết rằng giấc ngủ đóng vai trò quan trọng đến sự sống còn, giống như việc phải thở, phải ăn và uống nước. Hãy cùng nhau điểm lại những mục đích và lợi ích của giấc ngủ:

I. Giấc ngủ giúp củng cố trí nhớ

Nhờ giai đoạn ngủ REM, bạn sẽ có được một bộ máy xử lý thông tin mượt mà, một cái đầu lạnh được kết nối chặt chẽ với cơ thể, từ đó các chức năng nhận thức và phản xạ tự nhiên trở nên nhạy bén hơn. Việc ngủ không đủ hoặc ngủ ngắt quãng có thể ảnh hưởng đến trí nhớ và tâm trạng của bạn.

II. Giấc ngủ rất cần thiết cho sức khỏe thể chất

Có một giấc ngủ sâu giúp cơ thể tái tạo cơ bắp cũng như tăng cường hệ miễn dịch. Nghiên cứu cho thấy, nếu một người chỉ ngủ 5.5 tiếng thay vì 8.5 tiếng mỗi đêm, cơ thể sẽ đốt cháy calo nhiều hơn từ protein và carbohydrate, thay vì chất béo.⁷ Điều này có thể dẫn đến mất cơ và tích trữ mỡ thừa, làm tăng khả năng mắc các bệnh thường gặp như tiểu đường và béo phì.

III. Giấc ngủ giúp não bộ được thanh lọc

Với khả năng tự làm sạch khỏi các chất thải chuyển hóa, như beta amyloid và tau của não bộ; bạn sẽ luôn duy trì được sự sáng suốt và sảng khoái sau mỗi giấc ngủ. Nếu một người hay thức khuya hoặc bị mất ngủ, những độc tố này có thể tích tụ ngày càng nhiều, gây ra rối loạn chức năng não ngắn hạn và dài hạn, bao gồm cả sự phát triển âm thầm của những căn bệnh thoái hóa thần kinh quái ác.

Lời kết

Tất cả những điều trên là một lời khẳng định hợp lý rằng, có một giấc ngủ chất lượng mỗi đêm chính là giải pháp để bạn luôn khoẻ mạnh, tỉnh táo và sống một cuộc đời tròn vẹn hơn. Như lời người thông thái đã từng nói:

Đi ngủ sớm và thức dậy sớm, sẽ khiến ta nên khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan.
— Benjamin Franklin


References 
3. How Much Sleep Does an Elite Athlete Need? Mình đã cố gắng tìm ví dụ điển hình từ những tuyển thủ trong nước như kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên, hay đội tuyển bóng đá Việt Nam, nhưng thật sự là không tìm ra được nguồn đủ uy tín và xác thực. 
5. Nedergaard Recognized with Nakasone Award for Pioneering Research. Bà Nedergaard và đội nghiên cứu tại Trung tâm Y tế Đại học Rochester chính là nhóm đã khám phá ra Hệ thống Glymphatic có trong não bộ. 
7. Insufficient sleep undermines dietary efforts to reduce adiposity

LINH V. | Cám ơn bạn đã đọc. Bạn có thể đọc thêm nhiều ý tưởng thực tế tại linhvu.blog

Tuesday, April 16, 2024

Sơ lược lịch sử đầy chính trị của Phở
Một hôm lang thang Spiderum thì mình đọc được một bài khá thú vị về phở, được trích từ cuốn “The Pho Cookbook” của tác giả Andrea Nguyễn, xuất bản năm 2017 bởi Ten Speed ​​Press.
Phải nói bài viết này khiến mình ồ à rất nhiều vì không ngờ bát phở mình thường ăn lại có một lịch sử hào hùng (và thi thoảng bi tráng) đến thế. Nên mình rất muốn dịch lại, phần để hiểu sâu hơn (và research quá trời để dịch được sát luôn), phần để lưu lại cho mình và cho ai đó cũng quan tâm. Link bài mình đọc mình sẽ để ở đây, cảm ơn bác Smiley Mia vì đã đăng tải :D

Một bát phở bò đặc trưng với chanh và quẩy

Phở đã trở nên gần gũi với Văn hóa Việt Nam tới mức người ta đã dùng nó như một ẩn dụ trong các mối quan hệ tình cảm. Chúng tôi thường nói vui rằng cơm chính là người vợ đảm đang mà bạn có thể dựa vào. Còn phở, thì là cô nhân tình đầy ve vãn mà bạn cứ thích lẻn đi thăm thú.
Có lần, tôi đã hỏi bố mẹ nghĩ sao về phép so sánh này. Bố tôi mới lắc lắc cái hông để minh họa cho cô nhân tình tên “Phở”. Còn mẹ tôi thì phì cười và hùa vào châm biếm: “Phở thì thú vị thật đấy, nhưng đó không phải “người phụ nữ” con muốn thăm mỗi ngày đâu. Con sẽ chán ngấy ngay. Ăn món gì thì cũng phải điều độ”.
Món phở đã quyến rũ tôi lần đầu tiên vào năm 1974. Khi ấy, tôi lên 5, ngồi chễm chệ trên băng ghế gỗ ở quán phở yêu thích của bố mẹ, sử dụng đũa và thìa một cách điêu luyện và tâm huyết. Các bác chủ quán đã ngạc nhiên vô cùng; còn bố mẹ tôi thì cười rạng rỡ đầy tự hào về tôi.
Vị nước dùng thơm lừng, những miếng bò ngọt thịt và những sợi phở mềm dai làm tôi say đắm mà ăn sạch sành sanh. Tôi đã được xoa dịu, được no căng bụng ấm, giống như muôn người ngoài kia khi họ ăn món ăn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam này. Nhưng khi gia đình chúng tôi di cư sang Hoa Kỳ vào năm 1975, chẳng có quán phở nào lân cận để chúng tôi lui tới ở khu San Clemente, California, nơi gia đình tôi tái định cư. Vậy nên món phở của tôi đã được chuyển sang thưởng thức tại nhà, một tay nhà làm, cho những bữa sáng muộn vào Chủ nhật.
Phở từ đó trở thành một món ăn cực kỳ đặc biệt được gia đình chúng tôi yêu mến. Mẹ tôi thường bắt đầu nấu phở bò hoặc phở gà vào thứ Bảy. Rồi sáng hôm sau, bà sẽ sắp tụi nhỏ bọn tôi thành hàng lối chờ thưởng thức phở. Món phở nhà làm của chúng tôi được ăn kèm với ớt tươi xắt lát và vài nhánh bạc hà. Sự giản dị của món phở ấy đã phản ánh quãng đời lớn lên trong lòng miền Bắc Việt Nam của cha mẹ tôi, nơi cái thuần khiết và mộc mạc chiếm ưu thế. Dù rằng họ đã từng sống ở một Sài Gòn đầy phóng khoáng trong vài chục năm, nhưng họ không tài nào cho phép món phở của mình được tô điểm, ăn kèm với giá đỗ, húng quế hay vắt chanh. Và hẳn là không được có tương ớt Sriracha xuất hiện trong bát phở rồi, vì đó là thứ mẹ tôi coi là trái-Việt-Nam.

Một tô phở ở Los Angeles

Khi còn là một cô sinh viên theo học tại Los Angeles, tôi đã ghé những nhà hàng chuyên về phở để rồi được thử những tô phở khổng lồ, nằm trên những chiếc đĩa được trang trí cầu kỳ nhằm làm tăng tính độc đáo cho thực khách khi thưởng thức. Sau một vài phút bối rối, tôi bắt đầu học cách thả mình vào văn hóa ẩm thực ấy, kể cả khi có nhìn thấy ai đấy rưới sốt tương hoisin hay tương ớt sriracha vào trong phở của họ. Nhưng cũng từ đó mà tôi bắt đầu luyện tập nấu phở theo cách của riêng mình, viết lại loạt công thức cho cuốn sách nấu ăn đầu tiên của tôi, cuốn “Vào trong bếp Việt” (Into the Vietnamese Kitchen (2006)), nghiên cứu và viết bài về phở của Việt Nam, nhận lời phỏng vấn với cánh phóng viên và blogger, và dạy cả những lớp học nấu phở cho vô kể đầu bếp.
Tôi cứ nghĩ là tôi biết rõ phở như lòng bàn tay, chỉ cho tới khi bạn bè tôi, những người hâm mộ đến từ Facebook của tôi, và sau đó là cả nhà xuất bản ruột của tôi đề xuất rằng tôi nên viết một cuốn sách nấu ăn chuyên về phở. Mới đầu tôi đã nghĩ kiểu “Thật đấy à?! Có gì để mà viết đây ngoài bát phở thân thuộc?” Thế mà hóa ra lại có cả tá thứ để nói. Chẳng mất quá nhiều thời gian để tôi ngộ ra thế giới của phở vô cùng phong phú, với tầng tầng lớp lớp tinh hoa ẩm thực đan cùng văn hóa.

Nguyên gốc của phở

Việt Nam có lịch sử với bề dày hơn 3500 năm, nhưng phở lại là một món ăn tương đối mới mẻ. Phở được ra đời vào khoảng đầu thế kỷ XX, ở trong lòng và loanh quanh mảnh đất Hà Nội - thủ đô của Việt Nam, nơi nằm ở phía Bắc của đất nước.
Khoảnh khắc kỳ diệu khai sinh ra lịch sử của Phở rơi vào trước năm 1910, với bằng chứng là một số bức tranh khắc gỗ về những người bán phở rong được đăng trong cuốn sách tranh khắc Technique du Peuple Annamite (Kỹ thuật của người An Nam) (1908-1910) của Henri J. Oger. Với tư cách là một nhà quản lý thuộc địa ở Hà Nội, ông đã ủy quyền cho các nghệ nhân và thợ chạm khắc gỗ, tài liệu hóa qua việc khắc họa lại về nếp sống ở thị thành và vùng nông thôn xung quanh. Nỗ lực dày công của họ đã ghi lại được hơn 4000 viễn cảnh, hai trong số đó là tranh mô tả về cảnh những người bán phở rong

Hình vẽ người bán Phở trong cuốn “Technique du Peuple Annamite” của Henri Oger

Nhưng khởi nguồn của món Phở ra sao? Một số người nói rằng, rất lâu trước khi phở trở nên phổ biến khắp phố phường Hà Nội, thì nó đã được ra đời ở Nam Định, một tỉnh mạnh về nông nghiệp nằm cách Hà Nội khoảng 55 dặm về phía Đông Nam. Vùng đất này đã sản sinh ra tầng tầng lớp lớp thế hệ các bậc thầy về phở, rất nhiều người trong số đó đã chuyển đến thủ đô Hà Nội bấy giờ để mở nên những quán phở tên tuổi. Ngoài ra còn có một vài giả thuyết khác về gốc gác của phở, nhưng có một điều chắc chắn rằng dù phở có được sinh ra ở đâu, thì phở vẫn là kết quả vô tình của những va chạm trong đời sống người Việt.

Hình vẽ người bán Phở trong cuốn “Technique du Peuple Annamite” của Henri Oger

Lời giải thích hợp tình hợp lý bậc nhất về nguồn gốc của phở đã được ghi lại trong tác phẩm “Trăm năm phở Việt”, một tập luận văn mang tính lịch sử của nhà nghiên cứu khoa học Trịnh Quang Dũng. Theo đó, ở khu vực Hà Nội khoảng đầu những năm 1900, người Việt, người Pháp và người Hoa từ các tỉnh lân cận vùng Quảng Đông và Vân Nam đã giao lưu sôi nổi. Vào lúc ấy, người Pháp, cũng là Đế quốc đô hộ Việt Nam từ khoảng những năm 1880 đến năm 1954, đã không ngừng giết mổ bò, giống loài vốn được người Việt nuôi lấy sức kéo, để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức bít tết của mình. Họ ăn phần thịt chính, chỉ để lại những mẩu xương và mảnh thịt vụn còn sót cho mấy người bán thịt lành nghề tận dụng và bán nốt.
Người dân địa phương thời này thì vẫn chưa có thú vui ăn thịt bò, thế nên những tay bán thịt phải tìm cách khuyến mãi bằng mức giảm giá đặc biệt. Đây chính là cơ hội vàng mà những gánh hàng rong đã nhìn thấy để tạo ra bước tiến đầy mới mẻ.
Vào thời điểm đó, món “xáo trâu” là một món vô cùng phổ biến. Nó chỉ đơn giản bao gồm những lát thịt trâu nấu trong nước dùng và một loại sợi bánh chế biến từ bột gạo truyền thống như bún hoặc bánh đa. Những gánh hàng rong mới bắt đầu thế chỗ xáo trâu bằng thịt bò, và đổi sợi bún tròn lấy sợi phở dẹt.
Món phở mới mẻ này đã thành xu hướng của những tay bán hàng ăn gốc người Hoa, những người sẽ lang thang khắp phố phường để chèo kéo khách hàng. Bởi thế nên rất nhiều khách hàng trung thành đầu tiên của món phở là những lao động người Hoa có sinh kế gắn liền với các tàu buôn của Pháp và Trung Quốc, thường neo đậu bên rìa Sông Hồng, vốn là những con tàu từ tỉnh Vân Nam tạt qua Hà Nội để tiến tới Vịnh Bắc Bộ. Nhờ vậy mà một nhóm người đa dạng đã được kết nối lên từ đây.

Ngưu nhục phấn
 
Các tàu buôn của Pháp và Trung Quốc kể trên đã thuê rất nhiều người gốc Vân Nam, và có thể chính họ đã tạm gọi tên “món ăn qua cầu” mới này là “ngưu nhục phấn”, bởi những nét tương đồng của nó với món “ngưu nhục phấn” của họ (Cả hai món đều gồm có sợi bánh từ gạo, nước dùng nóng hổi, thịt thà, và rau). Món ăn này đã thu hút sự chú ý của những lao động người Hoa, và không lâu sau đó là cả của những nhân công người Việt được thuê bởi Bạch Thái Bưởi, nhà tư sản huyền thoại của Việt Nam (Bạch Thái Bưởi vốn luôn ủng hộ quan điểm tạo công ăn việc làm cho người gốc Việt là một lợi thế cạnh tranh lớn trước các đối thủ người Hoa và Pháp của ông).
 
Bát phở Vân Cù có bí quyết làm bánh phở thơm ngon độc đáo.

Theo nhà sử học Erica Peters, sự phổ biến của món ăn được lan rộng cùng với số lượng quán hàng rong tăng lên, để đáp ứng quá trình đô thị hóa thuộc địa của Hà Nội. Những quán phở đầu tiên được mở trong lòng khu phố cổ nhộn nhịp (cũng là trung tâm thương mại chính của Hà Nội). Còn các quán phở kiểu Nam Định thì xuất hiện vào khoảng năm 1925, khi một đầu bếp lành nghề đến từ Vân Cù mở một tiệm ăn ở mặt đường Hà Nội. Không lâu sau đó, phở có thể được tìm thấy ở bất cứ đâu của thành phố.
Vậy cái tên “ngưu nhục phấn” đã biến đổi sang “phở” như thế nào? Có khả năng là khi món ăn này trở nên phổ biến, thị trường hàng rong cũng trở nên cạnh tranh hơn, và những người bán rong đã biến đổi câu rao của mình để trở nên đặc biệt hơn và thu hút khách hàng hơn. “Ngưu nhục phấn đây” đã được rút gọn thành “Ngưu phấn a”, rồi “phấn a” hoặc “phởn ơ”, và cuối cùng cũng quy về một từ, “phở”. Trong một cuốn từ điển tiếng Việt được xuất bản vào khoảng năm 1930, từ “phở” ban đầu được định nghĩa là món ăn của sợi bún dẹt và thịt bò, còn cái tên được bắt nguồn từ từ “phấn”, một từ tiếng Quảng Đông chỉ sợi bún dẹt. Có ý kiến cho rằng “phở” ra đời vì khi “phấn” bị phát âm sai hay nghe nhầm, nó sẽ bị liên tưởng thành “phân”.

Kỹ thuật nướng gừng và hành

Thuật ngữ “phở” không bắt nguồn từ tiếng Pháp, mặc dù có một số tuyên bố rằng cách phát âm của “phở” là cách đọc trại đi từ “feu” (có nghĩa là “lửa” trong tiếng Pháp, như trong “pot au feu” [ND: “nồi đặt trên lửa”, tên món bò hầm kiểu Pháp]). Mối liên hệ Pháp-Việt hợp lý hơn ở đây phải là kỹ thuật nướng gừng, hành tây và hẹ tây trên bếp lửa để làm nước dùng phở.
Một lưu ý cuối cùng về mặt thuật ngữ: từ “phở” không chỉ ám chỉ một món đồ nước, mà bản thân nó cũng là cách gọi tắt cho loại bún dẹt dùng trong món ăn này, “bánh phở”. Ý nghĩa ẩm thực kép của từ này đang kể câu chuyện của nó. Rằng phở không chỉ là về phần nước dùng, mà còn là về sợi bánh và muôn vàn biểu hiện vẻ vang của nó.

Phở phản kháng và chính trị

Ngoại bang chiếm đóng, cuộc chiến tranh Pháp - Đông Dương, chiến tranh Việt Nam, thống nhất và tái thiết: Đó là một thế kỷ 20 đầy hỗn loạn đối với Việt Nam.
Trong những năm 1930, nhiều nhà văn, nhà thơ ở Hà Nội đã dùng ngòi bút để chống lại sự chiếm đóng của thực dân Pháp. Năm 1934, một trong những nhà thơ nổi bật của đất nước, Tú Mỡ, đã viết nên tác phẩm có tên “Phở đức tụng” (“An Ode to Pho”). Là cây bút với phong cách châm biếm chủ nghĩa dân tộc, Tú Mỡ muốn truyền tải niềm tự hào của người Việt Nam và khát vọng công lý cũng như quyền tự quyết của người dân. Sau khi ca ngợi vị ngon độc đáo của phở, từ cách nó khơi dậy các giác quan thế nào và cách nước hầm xương của món phở đã dung dưỡng con người từ mọi tầng lớp giàu nghèo cũng như các nghệ sĩ, ca sĩ và cả gái đĩ ra sao, ông kết lại bằng những dòng thơ dưới đây, tôi xin được cắt nghĩa sơ qua:
ND: Xin được đính đoạn thơ gốc của cụ Tú Mỡ trước

“Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn,

Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang.

Cùng các cao lương vạn quốc phô trương,

Ngon lại rẻ, thường hay quán giải.

Sống trên đời, phở không ăn cũng dại,

Lúc buông tay ắt phải cúng kem.
ND: Còn đây là phần cắt nghĩa của tác giả

Ai ơi, nếm thử kẻo thèm.”

“Đừng hạ thấp món phở bằng cách gán nó là một món ăn tầm thường,

Ngay cả thành Paris cũng phải nghinh đón phở.

So với những cao lương mỹ vị khắp thế giới,

Nó ngon nhưng lại rẻ, và thường được tôn ở hàng bậc nhất.

Sống trên đời này mà không ăn phở là ngu ngốc,

Khi chết thì nên thêm phở vào cúng lễ lên bàn thờ.

Giờ hãy nếm thử phở đi, không thì thòm thèm mãi.”
Khi thời kỳ thuộc địa của Pháp kết thúc vào năm 1954 và Hiệp định Giơ-ne-vơ chia cắt đất nước thành hai miền Bắc và Nam Việt Nam, khoảng một triệu người miền Bắc đã di cư vào trong Nam, báo hiệu sự đổ bộ của món phở kiểu Hà Nội vào Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) đang tới. Người Sài Gòn đã quen với phở từ những năm 1950, nhưng những con dân gốc Bắc đầy kiêu hãnh như mẹ tôi lại nói rằng phở không được phổ biến ở đó cho đến khi người miền Bắc xuất hiện. Hệ thống nhà hàng mang tên “Phở 54” [ND: Thương hiệu phở của người Việt tị nạn tại Mỹ, với 54 là viết tắt của 1954 thời điểm người Bắc di cư vào Nam] chính là cú gật đầu đồng ý cho dấu ấn quan trọng đó trong lịch sử và ẩm thực Việt Nam.

Chuỗi Phở 54 ở hải ngoại

Với sự trù phú của nông nghiệp cũng như sự tự do tự tại của miền Nam, nước dùng của phở bấy giờ đã có cả vị ngọt do một số đầu bếp đã thêm một chút đường phèn Trung Quốc vào trong đó. Người miền Nam cũng thích rất nhiều món ăn kèm như: giá đỗ, húng quế Thái, tương ớt và tương đậu lên men giống với tương đen hoisin. Người miền Bắc thì kinh hãi với điều ấy. Những cải tiến này đã xúc phạm món phở cân bằng, tinh tế của họ. Cho đến ngày nay, cuộc chiến vùng miền của phở giữa Hà Nội và Sài Gòn (miền Bắc với miền Nam) vẫn tiếp tục gay gắt.
Cùng lúc đó, cuối những năm 1950 là thời điểm tàn khốc đối với phở ở Hà Nội. Đây là thời gian Đảng Cộng sản quốc hữu hóa nhiều doanh nghiệp vì mục đích cải cách xã hội. Liên Xô đã gửi viện trợ kinh tế cho Hà Nội, trong đó có rất nhiều khoai tây và bột mì. Nhà văn Xuân Phượng, cũng là một người kiên trung với Đảng, đã kể lại món phở thời đó trong cuốn hồi ký hấp dẫn của bà, “Áo Dài: Cuộc chiến của tôi, Đất nước tôi, Việt Nam tôi” xuất bản năm 2004 :
“Phía bên cung ứng thậm chí còn cấm các hàng quán nấu những tô phở thật với cái cớ là lãng phí thóc gạo”
Cái món được được bày ra để thay thế phở được làm từ sợi bánh đã thiu, một chút thịt dai, và nước dùng nhạt nhẽo. Mặc dù vậy, thực khách vẫn cần phải xếp hàng chờ nếu như muốn thưởng thức một tô. Thông thường, người đàn bà đứng bán quán sẽ cứ vậy trút cả muôi nước dùng vào vào bát của khách và làm bắn ướt nhẹp quần áo của khách hàng.
Để tránh bị người ta lấy trộm thìa, thậm chí có mấy chủ quán còn nảy ra ý tưởng đục một lỗ ở giữa thìa: vì thế nên nước dùng sẽ phải được húp thật nhanh, nếu không, nước sẽ chảy hết ra qua cái lỗ đó trước khi được đưa vào miệng. Đũa điếc thì chả bao giờ được rửa và bàn ghế cũng không bao giờ được lau. Từ đó trở đi, mỗi khi muốn mô tả một thứ gì đó bẩn thỉu, người ta sẽ nói, “Thật kinh tởm, y như phở của nhà nước vậy,” mặc dù thành thật mà nói, chúng tôi thấy việc mình có khả năng để mua 1 tô phở “kinh tởm” như vậy đã có thể coi là may mắn rồi. Còn những gánh phở rong thấp cổ bé họng, họ không được quyền bán phở nữa, mà thay vào đó, họ phải bán một loại “phở” hèn mọn với sợi bánh được làm từ bột khoai tây. May mắn thay, người dân Hà Nội quá nhiệt thành trong chuyện buôn bán nên không thể nhẫn nhục trước chuyện ấy quá lâu.
Dần dà, các điều luật trên đã bị phớt lờ. Để đánh lừa cán bộ kiểm soát, các gánh phở rong đã bày ra một chiếc rổ nhỏ với toàn bánh phở teo tóp chào hàng. Nhưng ở bên dưới, món phở xịn đang nằm chờ đợi. Nó ngon gần bằng hồi trước, và hầu như không đắt hơn cái món thay thế là bao. Chúng tôi đều gửi cho nhau danh sách các địa chỉ ăn phở bí mật của mình. “Cho tôi một bát phở với sợi bánh khoai tây”, chúng tôi thường sẽ nói to, đề phòng trường hợp có cán bộ nào ở quanh. Người bán hàng sẽ hiểu ngay. Nhưng sau đó phở xịn phải được nhanh chóng giấu xuống dưới để những người bán hàng rong tội nghiệp đó khỏi bị tịch thu nguyên liệu, cũng như là phải nộp phạt một khoản.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, một loại “phở” khác đã hoạt động ngầm ở giữa Sài Gòn. Bắt đầu từ khoảng năm 1965, một đơn vị biệt động quân Việt Cộng đã hoạt động bên trong cái vỏ của quán Phở Bình (“phở hòa bình”). Quán phở với 7 chiếc bàn này chính là đầu não Cộng sản nơi phát lệnh trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Theo một bài báo của Los Angeles Times năm 2010, Phở Bình là trung tâm tổ chức và vận chuyển vũ khí từ lực lượng an ninh miền Bắc đến các hầm trú ẩn ở Sài Gòn.
 
Di tích lịch sử cấp quốc gia Phở Bình

Ở Hà Nội, sự khan hiếm của thời buổi chiến tranh buộc các quán phở quốc doanh phải nấu phở mà không có thịt. Năm 1962, sau khi Mỹ bắt đầu gửi máy bay trinh sát không người lái đi để chụp ảnh miền Bắc Việt Nam, người dân địa phương đã chế nhạo món phở tuềnh toàng của họ là phở không người lái. Một bát phở chỉ thực sự được gọi là phở khi có thịt (bạn gọi phở theo phân loại ăn với thịt bò hay ăn với thịt gà), và món phở không có thịt nghe có vẻ rất kỳ quặc, nếu không muốn nói là vô lý, giống như một chiếc máy bay không người lái vậy.
Phở thời chiến ở Hà Nội được ăn kèm với cơm nguội, bánh mì và quẩy thay cho bánh phở. Anh họ tôi, Đỗ Lê Huy [ND: Gốc là “Huy Le Do”], là một người Hà Nội gốc hiện đang ở độ tuổi cuối năm mươi, còn nhớ như in cách mà những quán phở quốc doanh bán ra món “phở” dở ẹc ấy, trong khi những gánh phở rong ngoài đường lại ngon hơn nhiều, mặc dù số tiền phải trả rất đẫm. Anh tôi nhấn mạnh quẩy vốn là món được mấy tay bán rong người Trung Quốc đầu tư, bởi họ đã nhìn ra cơ hội để thêm chút thi vị vào trong cái trải nghiệm phở tẻ nhạt kia.
Huy và bạn của anh ấy, nhà thơ Giang Văn, đã sống qua thời kỳ khó khăn đó cũng như những năm tháng khom mình sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975. Đất nước được thống nhất, nhưng nền kinh tế thì nhiễu nhương vô cùng. Thức ăn được chia theo khẩu phần và mọi người phải xếp hàng để mua hầu hết mọi thứ, kể cả phở. Trong lúc uống trà tại quán cà phê thư quán của Giang Văn, hai người họ đăm chiêu thảo luận về nỗi khát khao cái chất giản dị thanh lịch của ẩm thực Hà Nội: đó là những bát phở nho nhỏ, nước dùng mằn mặn mà ngọt thanh, và thịt bò thái mỏng chín tới. “Không quẩy, không bột ngọt mì chính hay bất cứ thứ gì ăn kèm. Phong cách Hà Nội truyền thống vốn thuần khiết và tinh tế như thế đấy”, Giang Văn nói.

Phở ẩm thực và văn hóa

Phở là một hiện thân vừa truyền thống vừa đổi mới. Điều đó có nghĩa là nó có thể rất dễ chịu, nhưng cũng cực khó chịu.
Món phở ban đầu chỉ đơn thuần gồm có nước dùng, bánh phở, và thịt bò trụng chín. Sau đó, một số đầu bếp nấu phở đã bắt đầu đưa thịt bò tái vào để ăn kèm tùy ý. Vào cuối những năm 1920, người ta đã om sòm về cái được mất của của món phở dùng ngũ vị hương, dầu mè, đậu phụ và cà cuống (tinh dầu của một loại côn trùng, có mùi lê). Khoảng năm 1930, phở chiên giòn - phở chiên ăn với thịt bò và rau xào - được ra mắt và ủng hộ nhiệt liệt.

Phở chiên

Mọi chuyện trở nên ồn ào hơn vào năm 1939, khi các quán phở bắt đầu bán phở gà. Lúc này người ta thường chỉ bán phở gà vào thứ Hai và thứ Sáu, và có thể món ăn được sinh ra vì lý do nhà nước cấm bán thịt bò nhằm hạn chế việc giết mổ súc vật nuôi lấy sức kéo để làm thực phẩm. Những người theo chủ nghĩa thuần túy ban đầu chỉ trích phở gà là chả có tí nào giống phở, nhưng cuối cùng, phở gà có ưu thế của một món ăn hợp túi tiền và ngon miệng theo cách riêng của nó. Trên thực tế, một số quán phở sau đó đã quyết định chuyên bán phở gà.

Phở gà

Các phiên bản khác của phở, chẳng hạn như phở ăn cùng thịt bò hầm rượu vang đỏ (phở sốt vang) và phở chua, thực ra chưa bao giờ hoàn toàn được ưa chuộng. Quả thực, phở bò vẫn đứng nhất về độ yêu thích, phở gà thì xếp thứ hai, nhưng người Việt Nam sẽ luôn luôn tìm cách để làm món ăn đổi mới. Ở Hà Nội, các quán phở gia truyền kinh doanh qua nhiều thế hệ đúng là vẫn làm ăn rất phát đạt, nhưng giới trẻ bây giờ đã dần mê các món phở phi truyền thống hơn, chẳng hạn như phở cuốn, phở gà trộn và phở chiên giòn.
Ở Sài Gòn, nơi tọa lạc những quán phở lớn nhỏ, thực khách luôn vui vẻ húp sùn sụt những tô phở không kể sáng trưa chiều tối. Khách du lịch đổ xô đến quán Phở 2000, nơi cựu tổng thống Bill Clinton từng dùng bữa, trong khi người dân địa phương lại quen chân ghé quán Phở Lệ và Phở Hòa Pasteur. Ở nhà hàng Ru Phở Bar hiện đại và đậm chất nghệ thuật, người ta cho ra mắt món phở làm từ bún gạo lứt. Còn thực khách ghé quán Phở Hải Thiền thì lại thích mê phở bảy màu bởi ở đây người ta tạo màu sắc cho bánh phở từ nước rau củ.

Quán Phở 2000 được Tổng thống Mỹ Bill Clinton ghé ăn tháng 11.2000

Sự kiện miền Bắc và miền Nam Việt Nam thống nhất năm 1975 đã dẫn đến việc hàng loạt người tị nạn di cư, rất nhiều người trong số đó đã định cư ở Bắc Mỹ, Pháp và Úc. Cũng như gia đình tôi, họ củng cố cội nguồn văn hóa của mình thông qua món phở, họ mở và săn sóc cho những tiệm phở nhỏ ở xung quanh khu vực Little Sài Gòn, họ tự nấu tại gia và giới thiệu món phở với những người bạn thập phương mới. Các quán phở của người Việt tại đây vẫn giữ gìn hương vị nước dùng truyền thống cùng với bánh phở tươi, nhưng họ không ngại thử thêm những ý tưởng mới, chẳng hạn như phở tôm hùm đất, phở bò nấu sous vide và phở chiên.
Các siêu thị chính thống ở Mỹ ngày nay có bán đa dạng các loại phở mang đi, phở ăn liền. Không chỉ vậy, những đầu bếp không phải người Việt cũng đưa món phở vào trong menu nhà hàng, trong khi người dân Mỹ cũng thử sức mình tận tay làm phở tại nhà. Nước mắm và bánh phở ngày càng xuất hiện phổ biến trong nhiều khu chợ, cửa hàng tạp hóa địa phương, và lan truyền trên Internet, khiến cho món phở tại gia ngày càng dễ dàng thực hiện.
Trong một diễn biến khác, các tiểu thuyết gia và nghệ sĩ trên khắp thế giới cũng đang thực hiện các dự án tập trung vào phở và mang đậm chất phở. Trong tác phẩm The Beauty of Humanity Movement, câu chuyện của nhà văn Camilla Gibb thông qua cuộc đời của một người bán phở rong để làm sáng lên nghệ thuật, tình yêu và cả góc nhìn chính trị ở bối cảnh Hà Nội. Tại Úc, nhà tổ chức nghệ thuật cộng đồng Cường Lê đem đến một triển lãm đa dạng loại hình nghệ thuật có tên Tôi Yêu Phở. Trên Kickstarter, nghệ sĩ thể nghiệm Sabzi đã rap “Wassup Pham” cho chiến dịch “Phở 99”, một chiến dịch nhằm tạo ra loạt tác phẩm nghệ thuật đại chúng lấy cảm hứng từ phở. Omid Sadri đã gây quỹ cộng đồng cho một tô phở thông minh có thể xếp chồng lên nhau có tên là “Lantern”. Năm 2014, Richie Lê phát hành “The Phở Song”, bao gồm một video trên YouTube về những người Mỹ gốc Á trẻ kể câu chuyện về phở và cộng đồng người Việt hải ngoại quanh mình.


Như người ta vẫn thường nói, mối quan hệ của tôi với phở cũng bắt đầu bằng một sự tán tỉnh bông đùa - rồi đôi khi là một sự chìm đắm. Khi mới bắt đầu viết về phở, tôi không biết mình sẽ phải nói bao nhiêu. Và giờ đây, tôi không thể ngừng nói về phở.
“The Pho Cookbook” của tác giả Andrea Nguyễn

Thảo Anh ơi

Sunday, April 14, 2024

Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
Trong bài viết “Cơn Khát Bill” Của SBV Khi nào sẽ chấm dứt? Tân đã có đề cập tới việc lãi suất đồng Yen tăng lên sau cuộc họp của Ngân hàng Nhật Bản (BoJ) trong tuần này có thể sẽ giúp giảm sức nóng của giá vàng từ đó kìm hãm đà tăng của tỷ giá. Hôm qua (19/03), BoJ đã chính thức tăng lãi suất lần đầu tiên kể từ năm 2007, trở thành ngân hàng trung ương cuối cùng trên thế giới chấm dứt lãi suất âm khi đất nước này đang phải đối mặt với hàng thập kỷ giảm phát. BoJ trở thành ngân hàng cuối cùng trên thế giới nới lỏng chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo khi quốc gia này đang phải đối mặt với hàng thập kỷ giảm phát.
Các công ty lớn nhất của Nhật Bản gần đây đã đồng ý tăng lương thêm 5.3%, một mức không thể tưởng tượng được trước khi lạm phát toàn cầu bùng phát. Vào T02/24, Nikkei 225 đã vượt qua mức đỉnh 34 năm được tạo ra vào T12/1989, trong khi ngày càng có nhiều công ty chuyển chi phí lạm phát sang người tiêu dùng và tình trạng thiếu lao động đang góp phần khiến mức lương cao hơn.
Mặc dù lãi suất dương đã quay trở lại nhưng các nhà kinh tế cho biết lãi suất có thể vẫn ở mức rất thấp trong thời gian tới và các quan chức BoJ không coi lần tăng lãi suất đầu tiên là tín hiệu cho thấy nhiều đợt tăng lãi suất khác sẽ nhanh chóng xảy ra sau đó.

Sự trỗi dậy của “tinh thần Samurai”

Mặc dù thị trường cuối cùng đã có thể vượt qua mức đỉnh của năm 1989 nhưng tâm lý ở Tokyo không còn lạc quan như trước nữa. Cảm giác hưng phấn hay thành tựu thường thấy vào năm 1989 đã không còn nữa, khi xuất khẩu ô tô và tivi của Nhật Bản tăng vọt và giá bất động sản tăng dường như không thể ngăn cản được.
Vào cuối năm 1989, không ai có thể đại diện cho sự trỗi dậy trở thành siêu cường kinh tế của Nhật Bản thời hậu chiến tốt hơn Akio Morita, người đồng sáng lập Sony, người đã khiến cả thế giới choáng váng với thương vụ mua lại Columbia Pictures với giá $3 tỷ. Cùng năm đó, một bản dịch tiếng Anh bài luận mà ông là đồng tác giả, có tựa đề “The Japan That Can Say No”, đã lan truyền tại Mỹ. Morita cảnh báo:
Các anh không bao giờ có thể cạnh tranh được với chúng tôi
Akio Morita tỏ thái độ ngạo mạn trước người Mỹ

Điều này có thể làm mất lòng người dân Mỹ nhưng nó đã chiếm được cảm tình ở Nhật Bản khi các công ty và tỷ phú của nước này dần thống trị bảng xếp hạng những người giàu có nhất thế giới. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh Nhật Bản phải trả giá cho sự ngạo mạn của mình.
Jesper Koll, nhà kinh tế tại Warburg, cho biết thời điểm đó, các nhà hoạch định chính sách đã tăng thuế và lãi suất để kìm hãm đà tăng nóng của thị trường. “Ngày nay họ hoàn toàn ủng hộ tăng trưởng và lo lắng về nguy cơ giảm phát quay trở lại.” Năm 1989, Nhật Bản dốc toàn lực cho mục tiêu tăng trưởng. Ngày nay, trong nước thậm chí còn chẳng còn một chút lạc quan nào.

Bài luận “The Japan That Can Say No” được dịch trái phép tại Mỹ năm 1989

Khi những năm 1980s sắp kết thúc, Tokyo đang kỷ niệm một thập kỷ xuất sắc, trong đó nền kinh tế tăng trưởng trung bình 4%/năm nhờ giá cổ phiếu và bất động sản tăng vọt.
Nhưng đến mùa hè năm 1989, Kazuo Ueda, thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản khi đó đang giảng dạy tại Đại học Tokyo đã lo lắng.
Sự gia tăng gần đây của cổ phiếu Nhật Bản là một bong bóng và nó có thể vỡ bất cứ lúc nào
Kazuo Ueda cảnh báo trên tờ Nikkei vào năm 1989

Vào T05 năm đó, BoJ bắt đầu tăng lãi suất để chống lạm phát, tăng lãi suất chiết khấu từ 2.5% lên 6% vào T08/1990. Khi giá tài sản sụt giảm, các tổ chức tài chính và nhà phát triển bất động sản phải vật lộn để thoát khỏi các khoản nợ xấu và gây ra khủng hoảng ngân hàng. BoJ bắt đầu cắt giảm lãi suất và đến năm 1999, lạm phát xuống dưới 0%.
Nền kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ trì trệ kéo dài trong những năm 2000, khi nền kinh tế tăng trưởng bình quân chỉ 0.7%/năm. Khi tình trạng giảm phát nhẹ tiếp tục diễn ra, mọi người không còn tin rằng giá cả và tiền lương sẽ tăng, nợ cũng tăng lên. IMF dự kiến tỷ lệ nợ công trên GDP của Nhật Bản sẽ đạt 256% vào năm 2024, so với 65% vào năm 1989.

Từ “con hổ Châu Á” đến “bóng ma của chính mình”

Trong khi thế giới đang nỗ lực kiểm soát lạm phát trong năm qua thì Nhật Bản vẫn chưa chính thức tuyên bố thoát khỏi tình trạng giảm phát và vẫn là quốc gia duy nhất có lãi suất dưới 0% tính đến trước cuộc họp hôm qua. Mối đe dọa rõ ràng nhất đối với Mỹ hiện nay là sự trỗi dậy của Trung Quốc, trong khi Nhật Bản đã nhường lại lợi thế về điện tử tiêu dùng và chip cho các đối thủ ở Hàn Quốc và Đài Loan.
Theo khảo sát của Nippon năm 2022 thì tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi từ 17-19 tại Nhật Bản là thấp nhất (13.9%) so với các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Anh, Mỹ và Hàn Quốc.


Takeshi Niinami, giám đốc điều hành Tập đoàn đồ uống Suntory và chủ tịch Hiệp hội các nhà điều hành doanh nghiệp Nhật Bản cho biết, Nhật Bản hiện đang thu hút các nhà đầu tư toàn cầu tuy nhiên “chúng ta không nên lạc quan quá nhiều về điều đó”.
Đồng Yen rẻ và tôi sợ rằng các nhà đầu tư sẽ đột ngột bỏ đi và chúng ta chỉ còn lại một "cánh đồng trống".
Takeshi Niinami
Ngày nay, nền kinh tế đang ở một bước chuyển mình. BoJ đang chuẩn bị bắt đầu thoát khỏi chính sách tiền tệ cực kỳ nới lỏng ngay trong mùa xuân này. Nhiều công ty đang tăng giá bán và tình trạng thiếu lao động đang góp phần làm tăng mức lương.
Trong bài phát biểu vào đầu T02/24, Shinichi Uchida, phó thống đốc BoJ, bày tỏ sự lạc quan: “Chúng ta hiện đang đứng trước cơ hội thoát ra khỏi suy nghĩ và hành vi của thời kỳ giảm phát”, thứ đã gieo vào tư duy người dân Nhật trong suốt hơn 2 thập kỷ.
Tuy nhiên vẫn có rất ít sự lạc quan khi nền kinh tế đã suy thoái trong hai quý liên tiếp, với mức tiêu dùng hộ gia đình vẫn còn yếu. Koji Toda, nhà quản lý quỹ tại Resona Asset Management, cho biết: “Tôi sẽ không gọi đây là bong bóng và vẫn chưa có gì chắc chắn về việc đảo ngược tình trạng giảm phát.”

Nhật Bản – Bài học về sự kiêu ngạo

Akio Morita mất vào ngày 03/10/1999 khi nền kinh tế Nhật Bản vẫn đang chìm sâu trong khủng hoảng và phải trả giá cho thói ngạo mạn của mình. Sau cuộc khủng hoảng ngân hàng trong nước và sự phá sản của Lehman Brothers năm 2008, các tập đoàn Nhật Bản như Sony, Panasonic và Hitachi bước vào thời kỳ tái cơ cấu kéo dài.
Khi Nippon Steel công bố giá thầu mua lại US Steel trị giá $14.9 tỷ bằng tiền mặt vào T12/23, các chủ ngân hàng coi thương vụ này là dấu hiệu cho thấy sự trở lại của các công ty giàu tiền mặt của Nhật Bản trên thị trường toàn cầu.
Nhưng nếu các thương vụ M&A những năm 1980 là minh chứng cho tham vọng vươn ra thế giới của các công ty Nhật, thì các giám đốc điều hành cho biết làn sóng đổ xô ra nước ngoài ngày nay được thúc đẩy bởi nhu cầu tìm kiếm doanh thu mới bên ngoài trong khi thị trường lao động trong nước đang chứng kiến sự già hóa dân số.
Năm 1989, các công ty Nhật Bản, đặc biệt là các ngân hàng, thống trị top 10 toàn cầu về vốn hóa thị trường. Hiện nay không có công ty Nhật Bản nào lọt vào top 10.
Năm 1989, 6 trong số 10 người giàu nhất thế giới là người Nhật. Đứng đầu danh sách là Yoshiaki Tsutsumi, chủ tịch Tập đoàn Seibu, người có tài sản ước tính khoảng $15 tỷ. Giờ đây, chỉ có ba người Nhật được xếp hạng trong số 100 tỷ phú hàng đầu thế giới, trong đó Tadashi Yanai, người sáng lập Uniqlo, chủ sở hữu Fast Retailing, và gia đình ông xếp thứ 30 với tài sản ròng ước tính là $40 tỷ.
Về mặt thu nhập, các công ty Nhật Bản đã nổi lên từ thời kỳ tăng trưởng thấp với bảng cân đối kế toán lành mạnh. Theo dữ liệu của Bộ tài chính, lợi nhuận ròng do các công ty phi tài chính Nhật Bản tạo ra đã tăng hơn 4 lần lên ¥74 nghìn tỷ ($493 tỷ) từ năm tài chính 1989 đến năm tài chính 2022, trong khi số cổ tức họ trả cho các cổ đông đã tăng gấp 8 lần lên ¥32 nghìn tỷ trong cùng thời gian đó. Tuy nhiên, hàng thập kỷ giảm phát và kinh tế trì trệ cũng đã làm giảm nhu cầu đầu tư, khiến các công ty phải ngồi trên đống tiền mặt khổng lồ lên tới ¥343 nghìn tỷ.
Khoảng một nửa số công ty bluechip niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo có cổ phiếu bị định giá thấp hơn giá trị sổ sách. Masakazu Tokura, chủ tịch liên đoàn công ty Keidanren hùng mạnh của Nhật Bản, cho biết tại một cuộc họp báo trong tháng này: “Sự gia tăng cổ phiếu hiện tại không phản ánh sức mạnh thực sự của các công ty Nhật Bản”.

Nhật Bản – “Chú lùn” trong thế giới đang tăng trưởng

Mục tiêu lạm phát 2% mà BoJ tin rằng hiện đã nằm trong tầm kiểm soát và cao hơn 1.4 pts so với tỷ lệ lạm phát trung bình trong 10 năm tính đến cuối năm 2021. Mức lạm phát dự kiến tăng 1.4 pts này cao hơn mức tăng 0.2 pts, do đó lãi suất thực tế đã giảm chứ không phải tăng. Hơn nữa, BoJ đã nêu rõ trong tuyên bố của mình vào ngày 19/03 rằng họ dự kiến sẽ duy trì các điều kiện tài chính “thích hợp” và sẽ tiếp tục mua một số trái phiếu.

"Chú lùn Nhật Bản" giữa thế giới đang tăng trưởng

Lãi suất thực chạm đáy phản ánh thực tế rằng dân số già của Nhật Bản, 30% trên 65 tuổi, có lượng tiền tiết kiệm dồi dào. Các ngân hàng đang tìm cách để đưa lượng tiền này vào sử dụng hiệu quả hơn, bởi vì một nền kinh tế với dân số ngày càng già hóa sẽ có nhu cầu đầu tư vốn thấp hơn. Vấn đề nhân khẩu học và việc Nhật Bản không sẵn sàng cho phép nhập cư nhiều cũng hạn chế sự phát triển của nước này. IMF dự kiến tăng trưởng GDP trung bình hàng năm chỉ 0.5% trong 4 năm tới, so với mức tăng 2% của Mỹ. Đó là một tốc độ đáng kể trong bối cảnh thiếu lao động - tốc độ tăng trưởng sản lượng trên mỗi người dân từ lâu đã ở mức ổn định.
Yếu tố cuối cùng là tình trạng nợ công kéo dài của Nhật Bản. Tỷ lệ nợ trên GDP là 255% hoặc 159% sau khi trừ đi tài sản tài chính của chính phủ; cả hai cách tính đều cao nhất so với các nước phát triển khác. Ngay cả khi lãi suất thấp, gần 9% ngân sách chính phủ vẫn được chi cho lãi vay. Nhật Bản không thể chịu đựng được việc thắt chặt tiền tệ như ở Mỹ, nơi lãi suất đã lên tới 5.25-5.5%.
Tương lai của Nhật Bản sẽ phụ thuộc vào cách thức mà đất nước này ứng phó với những thách thức hiện tại. Nếu không thể thay đổi, Nhật Bản có nguy cơ tụt hậu so với các nước phát triển khác.

Friday, April 12, 2024

 Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Phát triển, suy thoái, và sau đó là sự phục hồi - chuỗi vòng lặp tự nhiên mà có vẻ như không một nền kinh tế nào có thể thoát ra được. Có thể coi đó như một lời nguyền, hoặc, từ một góc độ khác, như một món quà - một cơ hội để những thị trường tài chính mài giũa và tiến xa hơn. Đúng vậy, thậm chí cả Bitcoin, ngôi sao sáng giá nhất trong vũ trụ tiền điện tử, cũng không nằm ngoài vòng xoáy này.
Trong những năm gần đây, Bitcoin cùng với thế giới tiền mã hóa đã trở thành một phần không thể thiếu của thị trường tài chính toàn cầu. Dù còn khá mới mẻ, nhưng đã nhanh chóng chứng minh được sức hút và tiềm năng vượt trội của mình, đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức cho những ai dám bước chân vào. Bitcoin, với những đặc điểm nổi bật của mình, đã tạo ra một dấu ấn không thể lẫn vào đâu được. Điểm khiến Bitcoin trở nên đặc biệt, thậm chí còn hơn cả vàng hay bất kỳ thị trường tài chính nào khác, chính là tính chu kỳ của nó và - quan trọng nhất - là sự kiện Bitcoin Halving.
Bitcoin Halving không chỉ là một hiện tượng kỹ thuật mà còn là một sự kiện kinh tế, đánh dấu những thời điểm quan trọng trong vòng đời của Bitcoin và cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cách mà những chu kỳ mới được hình thành. Mỗi sự kiện Halving, xảy ra khoảng mỗi bốn năm một lần, giảm số lượng Bitcoin được tạo ra với mỗi khối, làm tăng tính khan hiếm của Bitcoin và thường đi kèm với những biến động giá lớn.


Trong bài viết này chúng ta hãy cùng khám phá sâu hơn về ý nghĩa và tác động của sự kiện này đến thị trường tiền điện tử nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung. Nhưng trước hết, hãy bắt đầu bằng cách hiểu rõ về Bitcoin - đồng tiền điện tử đầu tiên và quan trọng nhất, trước khi tiếp tục khám phá lịch sử, ý nghĩa và tác động của các sự kiện Halving đã diễn ra.

1. Bitcoin là gì?

Bitcoin, ra đời vào năm 2009 bởi người (hoặc nhóm người) ẩn danh dưới tên Satoshi Nakamoto, không chỉ đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên tiền điện tử mà còn là ứng dụng đầu tiên và nổi bật nhất của công nghệ blockchain. Được thiết kế như một phương tiện giao dịch peer-to-peer, cho phép người dùng gửi và nhận giá trị mà không cần thông qua một bên trung gian tin cậy, Bitcoin đã mở ra một hướng mới cho tài chính toàn cầu.

Ngoài vai trò là một phương tiện giao dịch, Bitcoin còn được coi là một công cụ lưu trữ giá trị quan trọng. Giống như vàng, Bitcoin có một nguồn cung hạn chế - chỉ có 21 triệu Bitcoin có thể được khai thác - điều này giúp nó trở thành một khoản đầu tư hấp dẫn trong bối cảnh lạm phát và sự bất ổn của thị trường tài chính truyền thống. Sự khan hiếm này, cùng với độ tin cậy và bảo mật của công nghệ blockchain, đã giúp Bitcoin không chỉ giữ vững vị thế của mình như một đồng tiền mã hóa hàng đầu mà còn là một tài sản đầu tư có giá trị, ngay cả trong những thời kỳ biến động của thị trường.
Chính sự độc đáo này của Bitcoin - kết hợp giữa công nghệ tiên tiến và tính năng lưu trữ giá trị - đã khiến nó trở thành một biểu tượng không chỉ trong thế giới tiền mã hóa mà còn trong lĩnh vực tài chính rộng lớn hơn. Người ta còn gọi Bitcoin bằng một cái tên hoa mĩ khác, “Vàng kỹ thuật số.”
Trong khuôn khổ của bài viết, đây chỉ là một định nghĩa rất ngắn gọn về Bitcoin. Đồng crypto king này còn rất nhiều điều hay ho mà bạn có thể khám phá, và trên hết, kiến thức là hành trang tất yếu khi bắt đầu đặt chân vào thị trường tiền điện tử đầy thú vị này. Tuy nhiên, cũng có kiến thức this và kiến thức that, đã có không ít người vì nghe lời những chuyên gia tài chính trên Tiktok mà rơi vào cảnh tiền mất tật mang.
Chính vì vậy, việc học hỏi từ các nguồn uy tín trở nên thiết yếu. Trong số đó, Binance Academy là một lựa chọn hàng đầu, cung cấp một kho tàng kiến thức từ cơ bản đến nâng cao về Bitcoin và thế giới tiền mã hóa. Ở đây, chúng ta có những bài viết giải thích cặn kẽ những thuật ngữ, những mô hình hóc búa trong không gian crypto. Và nếu bạn là người mới, bạn cần một nền tảng về crypto hay bạn gặp khó khăn vấn đề liên kết những kiến thức từ bài viết đơn lẻ, Binance Academy còn có cả những khóa học miễn phí để gãi ngay vào chỗ ngứa này. Tựu chung, đây là nền tảng đáng tin cậy mà chúng ta có thể tra cứu, học hỏi để trau dồi cho bản thân mình.

Nếu xem Binance Academy là bước khởi đầu phù hợp cho những người mới tiếp cận thị trường, thì Bitcoin cũng có cho mình một dấu hiệu, để đánh dấu một “bước khởi đầu” cho một chu kỳ mới như mọi người hay kỳ vọng. Đó là Bitcoin halving.

2. Bitcoin Halving

Bitcoin Halving là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử của Bitcoin và thế giới tiền mã hóa nói chung. Đây là sự kiện tự động xảy ra sau mỗi 210,000 khối được khai thác, tương đương với khoảng mỗi bốn năm một lần, khiến phần thưởng cho việc khai thác mỗi khối giảm đi một nửa. Từ 50 BTC cho mỗi khối ban đầu, số lượng này đã giảm xuống còn 25, sau đó là 12.5 và gần đây nhất là 6.25 BTC. Và chỉ còn cách [x] ngày nữa, một lần nữa, sự kiện này sẽ diễn ra, Bitcoin sẽ tiếp tục halving và phần thưởng khối bây giờ sẽ giảm về 3.125 BTC.

Ở đây, "phần thưởng khối" là một thuật ngữ quan trọng mà bất kỳ ai quan tâm đến đồng tiền mã hóa này cũng cần phải hiểu. Cụ thể, phần thưởng khối là số lượng Bitcoin mà các thợ đào nhận được khi họ thành công trong việc xác minh và thêm một khối giao dịch mới vào blockchain. Đây là nguồn làm tăng cung duy nhất của Bitcoin, hay nói cách khác, Bitcoin halving sẽ làm cho đồng tiền số này trở nên khan hiếm hơn.
Vì lẽ đó, sự kiện này được xem như một dấu mốc, ấn định cho chu kỳ tăng giá và sự phát triển tiếp theo của Bitcoin. Khi số lượng Bitcoin mới được tạo ra giảm xuống, nguyên tắc cung và cầu cho thấy rằng, nếu nhu cầu vẫn tiếp tục tăng hoặc duy trì ổn định, giá của Bitcoin sẽ tăng lên. Điều này không chỉ dựa trên suy luận lý thuyết mà cũng được chứng minh qua các chu kỳ Halving trước đây, khi mà sau mỗi sự kiện, giá Bitcoin thường sẽ trải qua một giai đoạn tăng giá đáng kể.
Không chỉ về giá, tác động của mỗi sự kiện halving lên thị trường crypto còn lớn lao hơn thế, hãy cùng mình bàn rõ hơn ở phần 3 nhé!

3. Tác động của Bitcoin halving

Nhắc đến Bitcoin halving, cái tên bị ảnh hưởng đầu tiên chắc chắn là những thợ đào.

3.1 Thợ đào



Thuật ngữ “thợ đào” hay miners nhằm chỉ những cá nhân hoặc tổ chức tham gia vào quá trình tính toán các phép toán phức tạp, với mục tiêu xác minh và ghi lại các giao dịch vào một "khối" mới trên blockchain. Quá trình này không chỉ giúp bảo vệ mạng lưới khỏi gian lận mà còn tạo điều kiện cho việc tạo ra Bitcoin mới như một phần thưởng cho công việc của họ.
Nhưng khi Bitcoin halving xảy đến, thợ đào sẽ chịu ảnh hưởng rõ rệt. Khi phần thưởng khối giảm một nửa, lợi nhuận từ việc khai thác cũng giảm theo, đặc biệt là đối với những thợ đào có chi phí vận hành đắt đỏ. Điều này khơi dậy hai làn sóng tranh cãi trong thị trường crypto.
Một bên lo sợ rằng, vì lợi nhuận bị giảm đi, thợ đào phải tìm cách tối ưu hóa chi phí, từ việc áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến đến việc chuyển đến khu vực với chi phí điện thấp hơn. Một số thợ đào nhỏ lẻ có thể không còn khả năng cạnh tranh và buộc phải rời khỏi cuộc chơi. Xu hướng này vô tình lại tạo nên tình trạng “tái tập trung hóa” trong một thị trường mang bản sắc phi tập trung.
Bên còn lại có vẻ lạc quan hơn, họ cho rằng những miners sẽ không “chống tay” đứng nhìn phần Bitcoin bị cắt giảm kia. Các thợ đào có thể ngồi lại với nhau, cùng tạo nên những ứng dụng mới trên mạng lưới Bitcoin để thu hút người dùng, từ đó miners sẽ có thêm nguồn lợi nhuận đến từ phí giao dịch.
Chúng ta đã và đang chứng kiến làn sóng này. Một vài xu hướng như Inscription hay Bitcoin Ordinals diễn ra trong thời gian vừa qua đã thu về một lượng người dùng khổng lồ trên mạng lưới Bitcoin.


3.2 Biến động giá

Bên cạnh những tác động liên quan đến thợ đào, Bitcoin Halving còn được xem như một cột mốc quan trọng mở ra cho đồng tiền này chu kỳ tăng trưởng mới. Lịch sử đã cho thấy, sau mỗi sự kiện Halving, giá của Bitcoin không chỉ tăng lên mà thường còn vượt qua mức cao nhất mọi thời đại (ATH) trước đó.

Và điều đặc biệt trong chu kỳ này, ngay cả khi còn gần một tháng nữa mới đến Halving, Bitcoin đã phá vỡ mức ATH $69k được thiết lập vào tháng 11 năm 2021, chính thức tạo ra một ATH mới ở khoảng $73k. Đây là một sự kiện chưa từng có tiền lệ, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của Bitcoin.
Vậy, điều gì đã tạo nên sự kiện lịch sử này? Mặc dù khó có thể giải thích một cách toàn diện, nhưng có một quan điểm đáng chú ý rằng, trong chu kỳ này, Bitcoin đã không còn được xem như một loại tài sản "bên lề" như trước đây. Sự kiện Uỷ ban Giao dịch và Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) phê duyệt đơn đăng ký Bitcoin ETF dạng spot đã mở ra cánh cửa kết nối dòng tiền từ thị trường tài chính truyền thống sang thị trường crypto. Sự tham gia của các quỹ đầu tư lớn đến cả nghìn tỷ dollar như BlackRock và Fidelity,... đã chính thức đưa Bitcoin vào tầm ngắm, thúc đẩy giá trị và sự chấp nhận rộng rãi của nó.
Trong bối cảnh đó, kỳ vọng dành cho Bitcoin chắc chắn không dừng lại ở mức $73k. Tuy nhiên, khi thị trường tiếp tục phát triển, chúng ta có thể bắt đầu nhận thấy rằng biên độ biến động của Bitcoin có thể giảm dần theo thời gian. Điều này không nhất thiết là dấu hiệu của sự ổn định hoàn toàn, nhưng nó phản ánh sự trưởng thành và sự chấp nhận ngày càng rộng rãi của Bitcoin như một loại tài sản đầu tư có giá trị, cũng như sự kỳ vọng về tương lai bền vững mà nó mang lại.


Sự tăng trưởng của Bitcoin không chỉ gói gọn trong chính bản thân nó mà còn lan tỏa một tác động tích cực đến toàn bộ thị trường crypto. Điều này là do vị thế của Bitcoin không chỉ như một tài sản tiên phong trong lĩnh vực tiền mã hóa mà còn như một "phao cứu sinh" cho các dự án và blockchain khác trong những thời kỳ biến động. Phải nhìn nhận rằng, thị trường crypto và công nghệ blockchain đã trải qua quá trình trưởng thành đáng kể, với những blockchain như Ethereum, Solana, và các dự án khác đều chứng minh được sức mạnh nội tại của mình qua những giai đoạn khó khăn.
Tuy nhiên, Bitcoin vẫn giữ vị thế "anh cả" trong thế giới tiền mã hóa. Vị thế này không chỉ phản ánh qua giá trị thị trường mà còn qua ảnh hưởng sâu rộng của Bitcoin đối với tâm lý nhà đầu tư và sự chấp nhận của thị trường. Khi Bitcoin tăng giá và nhận được sự chấp nhận rộng rãi hơn, nó không chỉ thu hút nguồn vốn mới vào thị trường mà còn khuyến khích sự tham gia của người dùng mới vào lĩnh vực crypto và web3. Điều này tạo nên một luồng động lực mới, không chỉ thúc đẩy tăng trưởng cho Bitcoin mà còn cho toàn bộ ngành công nghiệp.
Đọc đến đây, nếu bạn đang toan cầm tiền đi mua Bitcoin vì trông có vẻ nó là kèo chắc thắng, thì gượng lại đã. Mặc dù nhìn bức tranh tổng thể, Bitcoin và thị trường tiền mã hóa nói chung có vẻ như đang trên một con đường tăng trưởng không ngừng, sự thực là mọi thứ không hề đơn giản như vậy.

4. Câu Chuyện Phía Sau Sự Kiện

Tất nhiên, ai cũng biết những điều mà chúng ta vừa chia sẻ. Rằng halving làm giảm nguồn cung Bitcoin, tiếp theo đó là giai đoạn tăng giá, bla bla... Nhưng khi mọi người cùng nhìn nhận và đặt kỳ vọng theo một hướng nhất định, liệu điều đó có luôn luôn đúng? Hãy cẩn thận với những kỳ vọng của mình, vì đôi khi, câu chuyện được phổ biến trên mặt báo chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Đừng để sự FOMO làm mờ mắt

Liệu Bitcoin có luôn tăng giá sau mỗi lần halving như trong "những chu kỳ trước"? Mặc dù lịch sử có thể hỗ trợ cho nhận định này, nhưng khi nhìn lại, ta thấy rằng chúng ta mới chỉ trải qua ba lần halving và đang hướng tới lần thứ tư. Đưa ra kết luận rằng đây sẽ là chu kỳ giá tăng không ngừng của Bitcoin là quá vội vàng, và việc tin tưởng mù quáng vào điều này càng nguy hiểm hơn. Lần này, Bitcoin đã phá vỡ ATH $69k trước cả khi halving diễn ra, thiết lập mức giá mới ở khoảng $73k.
Không có gì là chắc chắn hoàn toàn. Đừng nên quy chụp rằng chu kỳ halving của Bitcoin chính là chu kỳ giá. Điều này đặc biệt nguy hiểm nếu bạn đang nhìn với góc độ đầu tư ngắn hạn. Dường như, lựa chọn một chiến lược đầu tư dài hạn sẽ luôn an toàn hơn.
Ngoài ra, thời điểm halving có thể sẽ làm thị trường crypto trở nên sôi động hơn. Tại đây, nhiều câu chuyện mới sẽ được kể, các sự sáng tạo mới sẽ xuất hiện. Bull market luôn đem lại cơ hội để kiếm tiền, đôi khi là đủ để khiến bạn choáng ngợp.
Nhưng, tại sao đến cuối mỗi chu kỳ, đa số mọi người lại rơi vào tình cảnh thua lỗ? Đó là bởi vì đám đông thường bị cuốn theo không khí sôi động của thị trường. Sự cảnh giác bị giảm bớt, logic bị đặt sang một bên để chạy theo những cơn sốt, mở ra cánh cửa cho những trò lừa đảo. Chưa kể, bài học từ các sự kiện như Luna và FTX, dường như đã bị lãng quên trong làn sóng tăng giá mạnh mẽ.
Vì thế, trước khi mong muốn làm giàu từ tiền mã hóa, điều quan trọng nhất là phải biết cách giữ tiền an toàn. Vậy, làm thế nào để không mất tiền? Bước đầu tiên và cơ bản nhất chính là chọn nơi lưu trữ tiền một cách an toàn.
Ví phi tập trung như Trust Wallet có thể là một lựa chọn khả thi. Với loại ví này, bạn - và chỉ mình bạn - là người nắm giữ cụm từ bí mật, không ai khác có thể truy cập vào ví của bạn. Tuy nhiên, đối với người mới, việc sử dụng ví phi tập trung có thể khá phức tạp và thậm chí gây rủi ro nếu không cẩn thận, ví dụ như gửi nhầm địa chỉ hoặc kí vào một lệnh scam.

Do đó, bắt đầu với các sàn giao dịch tập trung có vẻ như là sự lựa chọn an toàn hơn cho những người mới. Và nơi có thể an toàn hơn Binance, sàn giao dịch tiền mã hóa lớn nhất thế giới hiện nay? Sự an toàn, tính bảo mật cao và sự dễ dàng trong việc sử dụng là những yếu tố khiến Binance trở thành điểm đến tin cậy. Vị thế ấy vẫn được giữ vững sau khi bị thách thức 2 mùa đông khắc nghiệt của thị trường crypto.
Sự an toàn phải được đặt lên trên cả. Phải có một chỗ đứng vững chắc, ta mới yên tâm để nhìn về tương lai xa hơn, ở đó, viễn cảnh của Bitcoin sẽ trông như thế nào?

5. Halving và tương lai của Bitcoin

Liệu có tài sản nào có thể giảm phát theo thời gian ngoài Bitcoin không? Có lẽ là không. Bằng cách giảm một nửa số lượng Bitcoin được phát hành mỗi khi một khối mới được khai thác, Halving không chỉ tăng cường tính khan hiếm của Bitcoin mà còn nhấn mạnh giá trị của nó như một tài sản lưu trữ giá trị dài hạn. Đây là một trong những yếu tố khiến Bitcoin trở nên hấp dẫn hơn đối với những nhà đầu tư tìm kiếm sự an toàn và bảo toàn giá trị trong bối cảnh kinh tế biến động với nỗi lo bị lạm phát gặm nhấm.
Trong chu kỳ Halving lần này, một điểm đáng chú ý là sự tham gia mạnh mẽ của các quỹ đầu tư lớn vào Bitcoin. Sự tham gia này không chỉ chứng minh cho sức hút ngày càng tăng của Bitcoin trong thế giới tài chính mà còn nâng cao vị thế của nó trong giới đầu tư chính thống.
 

Larry Fink, chủ tịch của quỹ đầu tư BlackRock - đang quản lý hơn 9 nghìn tỷ dollar tài sản, đã phát biểu về Bitcoin trong cuộc phỏng vấn với đài CNBC rằng: “Tôi tin rằng nó sẽ tiếp tục tăng nếu thế giới sợ hãi, nếu người dân lo sợ những rủi ro địa chính trị, họ sợ những rủi ro của chính họ…Nó không khác gì với những điều vàng thể hiện qua hàng nghìn năm. Nó là một loại tài sản bảo vệ bạn.”
Fink tiếp tục: “Không giống như vàng, nơi chúng ta sản xuất thêm vàng mới, chúng ta gần như đã đạt đến số lượng Bitcoin tối đa có thể được tạo ra”. “Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là cung cấp một công cụ có thể lưu trữ của cải.”
Sự thừa nhận này từ phía các quỹ lớn không chỉ là một bằng chứng cho thấy Bitcoin đã chuyển mình từ một tài sản đầu cơ mạo hiểm sang một loại tài sản được coi là cần thiết trong mọi danh mục đầu tư đa dạng và bảo thủ; mà còn là một dấu hiệu cho thấy Bitcoin đang dần trở thành một phần không thể thiếu trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sự tham gia của những tên tuổi lớn trong ngành tài chính vào thị trường Bitcoin không chỉ củng cố giá trị và tính thanh khoản của nó mà còn giúp tăng cường độ tin cậy và sự chấp nhận của đồng tiền này trên toàn cầu.
Nhìn về tương lai, con người chỉ có thể dự đoán những gì xảy ra tuyến tính. Nhưng Bitcoin thì phi tuyến tính, và thần chú duy nhất mà chúng ta có thể dùng là: expect the unexpected - luôn sẵn sàng đón nhận những thứ không ngờ tới.

Kết lại

Khi nhìn lại hành trình của Bitcoin từ những ngày đầu đến nay, cùng với những bước ngoặt quan trọng mà sự kiện Halving mang lại, chúng ta có thể thấy rằng Bitcoin đã trưởng thành hơn rất nhiều. Nó đang dần trở thành một phần của cuộc cách mạng lớn hơn trong thế giới tài chính và công nghệ.
Sự kiện Halving lần thứ tư này không chỉ là một dấu mốc thời gian, mà còn đánh dấu cho sự chuyển mình của một Bitcoin đang dần chứng minh được giá trị và vị thế không thể thay thế của mình trong nền kinh tế số. Với mỗi lần Halving, chúng ta không chỉ chứng kiến sự tăng giá của Bitcoin mà còn thấy được sự gia tăng về độ tin cậy, sự chấp nhận rộng rãi từ cả thị trường tài chính truyền thống và cộng đồng tiền mã hóa. Sự tham gia của các quỹ đầu tư lớn, sự chấp nhận từ các tổ chức tài chính và sự phát triển của các sản phẩm dựa trên Bitcoin đã mở ra một kỷ nguyên mới cho tiền mã hóa.
Nhưng quan trọng hơn, Halving nhắc nhở chúng ta về bản chất độc đáo của Bitcoin: một tài sản kỹ thuật số khan hiếm, với nguồn cung có hạn và một cộng đồng người dùng ngày càng mở rộng. Đây là những yếu tố cốt lõi tạo nên sức mạnh và tiềm năng lâu dài của Bitcoin.
Kết lại, khi tiếp tục hành trình với Bitcoin và thế giới tiền mã hóa, chúng ta không chỉ là những quan sát viên hay người tham gia; chúng ta đang trải nghiệm những chương đầu của một cuộc cách mạng tài chính mới. Bitcoin và crypto sẽ còn chặng đường dài để phát triển, đó chắc chắn là một hành trình thú vị và sẽ tiếp tục thu hút sự chú ý của chúng ta trong nhiều năm tới.

Trường Sơn